Ông Trưởng Giả Kén Rễ

Ông trưởng giả nghe chàng phân trần cũng phải, nên cơn nóng giận dịu xuống, bèn tha thứ cho chàng. Lúc bấy giờ ông chỉ ngay bức tranh vẽ hình con cọp treo trên vách và bảo làm thi.

Chàng liền ứng khẩu ngâm rằng:

Bích trung hữu nhứt hổ
Thân ly tam xích thổ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ.

Dịch nghĩa:

Trên tường có con hổ
Thân cách đất ba thước
Trên báo bốn ơn dày
Dưới cứu ba đường khổ.

Kinh Kim-Cang Bát-Nhã là một quyển kinh mà ông Trưởng giả đã thuộc làu. Trong bài thi nầy chàng dùng hai câu “Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ” là hai câu kệ trong kinh Kim-Cang, vì chàng muốn thức tỉnh cho ông trưởng giả luôn luôn nhớ lại Phật pháp. Nhưng trái lại, khi nghe đến hai câu kinh làm cho ông trưởng giả thêm khêu gợi lại lửa hờn xưa, vì ông nhớ bởi tụng kinh nầy mà ba đứa con trai của ông bị chết!

Lúc bấy giờ ông nổi giận lôi đình, la quát om sòm, lần nầy quyết định không tha. Ông bảo: “Nằm xuống! Nằm xuống! Đã ba lần rồi, lần nào ngươi cũng dùng đến danh từ trong kinh Phật, khêu gợi sự tức giận của ta.”

Tay ông vừa đánh và miệng vừa la mắng, đập một hơi không biết mấy chục roi. Thấy thế, động mối từ tâm, nên Lan Phương là con gái ông bước đến khuyên rằng:

– Thôi cha! … Thôi cha! … Vì người ta ở gần chùa chiền thấm nhiễm đạo Phật đã lâu, hôm nay chỉ trong tức khắc, Cha bảo họ phải bỏ hết những cái gì mà người ta đã thấm nhiễm, thì không thể được, để sau về ở nhà mình, lần hồi dạy dỗ, chàng sẽ làm được vừa lòng cha. Cha không nhớ Cổ nhân dạy: “Cận châu giã xích, cận mặc giã hắc” hay sao? (gần son thì đỏ, gần mực thì đen). Hơn nữa đã hơn một năm rồi, không biết bao nhiêu nhà thi sĩ văn nhân vào thi, song rốt cuộc đều bị đòn đi ra, không có một người nào tài hay lỗi lạc như anh nầy. Cha chỉ đâu thì anh ứng khẩu ngâm thi liền đến đó, không cần suy nghĩ, rất bặt thiệp, làm thi trong chớp nhoáng, nếu cha còn chê nữa thì con chắc chắn cha không tìm được một người nào hơn nữa.

Nói xong cô bèn trở vào phòng.

Sau mấy lời can gián, cơn nóng giận dịu lần, ông trưởng giả nghĩ thầm có lẽ con mình đã thương chàng nầy nên ông cũng chìu theo ý muốn của con, tha đánh và bảo chàng đứng dậy.

Khi đó ông trưởng giả ngồi suy nghĩ: Con mình nói cũng phải, đã hơn một năm rồi, không biết bao nhiêu tài sĩ văn nhân vào thi, nhưng không có một người nào tài hay bặt thiệp và văn chương hay tuyệt như chàng nầy. Đã ba bài rồi, bài nào cũng xuất sắc, chỉ có một điều, chàng thấm nhiễm đạo Phật đã lâu, nên từ ngôn ngữ cho đến điệu bộ cũng đều nhuộm màu sắc Phật giáo. Nhưng nếu ta cố chấp và gắt gao thế nầy mãi thì chắc không có một người nào được hoàn toàn theo ý muốn, rốt cuộc rồi con ta phải côi cút và lạnh lẽo suốt đời! Thôi ta hãy châm chế và dễ dãi bớt đi, để cho con ta được vui lòng.

Khi đó Lan Phương ở trong phòng phía đông, vừa khoát màn bước ra, diện mạo sáng rỡ như mặt nhựt, điệu bộ khoan thai và thùy mị. Ông liền chỉ ngay vào Lan Phương và bảo chàng làm thi.

Chàng kính cẩn khép nép và ứng khẩu ngâm:

Nhựt xuất hướng đông phương
Diện như minh kính trương
Dung nhan thậm kỳ diệu
Phổ chiếu biến thập phương

Dịch nghĩa:

Mặt nhựt mọc hướng Đông
Diện mạo tợ gương trong
Dung nhan thật kỳ diệu
Soi sáng khắp mười phương.

Lần nầy có phần êm dịu hơn các lần trước. Ông trưởng giả nghe xong có hơi tức giận, nhưng vẫn còn giữ được thái độ điềm tĩnh vì ông nghĩ thầm rằng: “Do ở gần chùa, chàng bị thấm nhiễm lâu ngày, nên mỗi bài thi đều bị ảnh hưởng đến Phật giáo chớ có lý nào chàng muốn chọc ta mãi như thế?”

Ông ôn tồn hỏi tiếp:

– Nầy cháu! Bác hỏi thật cháu: Vậy thân thế cháu có phải là nhà Sư chăng?

– Không, thưa Cụ.

– Nếu không phải nhà Sư, sao cháu biết kinh Phật, và trong mỗi bài thi cháu đều dùng những câu kinh, tỏ ra người rất thông Đạo Phật?

– Thưa Cụ, cháu đã thưa: Nhà cháu ở gần chùa Phật, sớm chiều cháu thường được nghe các thầy tụng kinh bái sám, với những giọng hòa huởn êm dịu và thanh thoát, khi bỗng khi trầm, lúc khoan lúc nhặt; thỉnh thoảng điểm một vài tiếng chuông, ngân nga trong cõi không gian tịch mịch, để đánh thức người say mê trong cảnh mộng, một vài tiếng mõ kêu sương trong đêm khuya thanh vắng, để gọi ai còn say ngủ trong đêm trường. Vì quá thích thú với mùi Thiền, nên cháu để ý thuộc được các bài kinh ấy. Thú thật, cháu không phải là tu sĩ.

Ông Trưởng giả yên lặng và nghĩ thầm: “Có lẽ, vì tập nhiễm lâu ngày nên phong độ của chàng nầy giống hệt nhà tu. Nếu sau khi chàng về làm con rể nhà ta, lần hồi huấn luyện, chắc cũng được vừa theo ý muốn.”

Lúc bấy giờ ông hứa sẽ gả Lan Phương cho chàng, và định ngày làm lễ thành hôn cho hai trẻ.

Suốt cả ngày, vì bận việc thi cử quá mệt mỏi, nên đêm nay ông Trưởng giả ngủ sớm. Đang mê man trong giấc điệp, ông bỗng thấy chàng thí sinh đến gọi:

– Thưa Cụ, Cụ có muốn tìm các con của Cụ không? Cháu xin tình nguyện dẫn Cụ đi.

Ông Trưởng giả vui mừng hớn hở đáp:

– Còn gì quí bằng! Bác cám ơn cháu lắm.

Hai người dẫn đi một hồi… Ông Trưởng giả bỗng thấy một cảnh giới khác thường, rùn rợn!

Ông hỏi:

– Có phải đây là âm phủ không?

– Thưa Cụ, âm phủ thì cháu chẳng biết, cháu chỉ biết chỗ nầy người ta gọi là chốn “Huỳnh Tuyền” hay gọi là chốn “Suối Vàng”.

– Suối vàng à! Suối vàng à! Bác nghe nói người chết rồi thả hồn xuống “Suối Vàng”. Hôm nay ta xuống đến Suối vàng, thế thì ta đã chết rồi sao?

– Không! Cụ chưa chết ạ. Vì Cụ muốn tìm vợ con nên cháu dẫn đến chốn nầy.

Nói xong chàng dẫn ông đi một đỗi nữa… Xa xa thấy dạng cậu Cả, ông mừng quá giục tốc chạy đến, ôm con và khóc kể:

– Con ơi! Sao con đành bỏ cha mẹ ra đi, làm cho cha ngày khóc đêm sầu! …

– “Thôi đi ông, tôi đâu phải con cái gì của ông. Nhà ông thiếu nợ tôi. Tôi đến đòi lại. Đòi xong tôi đi, chớ tôi đâu có phải con cái gì của ông.

Ông còn nhớ không? Trên 30 năm về trước tôi là người tá điền của ông, vì ông buộc phải đem thế vợ con trừ nợ, chúng tôi không thể làm theo ý muốn của ông được, nên ông dùng quyền thế ép chế và phá tan gia đình sự nghiệp của tôi. Tức giận quá nên tôi phải tự tử. Cái oan thù nầy chưa rửa sạch, tôi thề theo báo thù ông.

Bởi thế nên tôi sanh vào nhà ông, trong mấy chục năm, chỉ phá hại gia sản, làm cho ông phải hao tài tốn của. May nhờ ông biết hối hận tu hành nên tôi vui lòng hủy bỏ nợ cũ. Bằng không thì tôi quyết theo báo ông đến tiêu tan sự nghiệp mới thôi.”

Nói xong cậu bỏ đi không chút gì quyến luyến. Thấy con nói thế, ông tuôn rơi nước mắt, tức tưởi khóc một hồi. Chàng thí sinh nói:

– Thôi Cụ, con của Cụ đã nói như vậy, Cụ còn bịn rịn chi nữa cho vô ích! Để cháu dẫn Cụ đi tìm cậu Hai.

Đi một đoạn đường, ông lại thấy người con thứ Hai của ông đang đi ngang qua. Ông vội vã chạy theo, mừng rỡ và kêu vang:

– Con ơi! Con! Sao con đành bỏ cha đi biệt mất, làm cho cha đêm ngày sầu thảm, ốm o gầy mòn đến thế nầy!

Cậu gạt ngang nói:

-Ai cha con gì với ông. Ông thiếu nợ tôi đến đòi; đòi xong rồi đi, chớ tôi đâu có phải con cái gì của ông. Ông còn nhớ không: trên 20 năm về trước, nhà ông bị mất mấy lượng vàng. Ông nghi cho tôi, nên bắt ra tra khảo. Vì chịu không nổi sự đánh đập tàn nhẫn của người tra, nên tôi phải bỏ mạng. Rồi tiền tài của tôi ông tịch thâu hết. Mặc dù vợ con tôi bị đói rách mà ông cũng chẳng trả lại phần nào. Cái oán thù nầy tràn ngập, nên tôi thề trở lại nhà ông để báo thù. Khi nhà ông sanh tôi ra, cho đến ngày khôn lớn thì tôi đau ốm liên miên, làm cho hai ông bà có khi lo chạy gần hết tiền của cải, không làm một chút gì lợi cho nhà ông. May thay! Ông biết hối hận, sớm lo tu hành, nên tôi vui lòng xóa bỏ oán thù trước, chỉ đòi ông bấy nhiêu năm thôi.

Nói xong cậu bỏ đi một nước. Ông Trưởng giả gạt nước mắt, tức tưởi khóc, chàng thí sinh khuyên:

– Thôi Cụ, thế tình như thế… Cụ còn luyến ái nữa làm chi. Cụ nên đi tìm cậu Ba, thử xem nào.

Chàng dẫn ông Trưởng giả đi một khoảng đường nữa, ông thấy đứa con thứ Ba của ông đang đứng nói chuyện với một người bạn ở bên đường. Mừng quá! Ông hấp tấp chạy đến ôm con mà khóc.

– Con ơi! Con! Sao con đành bỏ cha mẹ ra đi, làm cho cha mẹ rầu buồn suốt cả ngày đêm. Mẹ con cũng vì rầu buồn quá, khóc cả ngày đêm không ăn bỏ ngủ, trong mấy tháng trường, nên phải bỏ mình, thả hồn về Âm cảnh.

– “Thưa ông! Tôi thiếu nợ ông, tôi phải đến trả, trả xong tôi đi; chớ tôi không phải con cái gì của nhà ông. Ông còn nhớ không? Trên 20 năm về trước, ở trong bọn tá điền của ông, có một gia đình rất nghèo, nhà dột cột xiêu, thiếu trước hụt sau, làm suốt cả năm, bị ông thâu góp hết. Nào lúa vốn lúa lời, lúa quần lúa áo, đến mùa rồi chỉ phủi hai bàn tay không. Cả gia đình suốt năm nầy đến năm nọ, phải mặc rách ăn hèn, tai bùn chân lấm, tóc rám môi chì, da đen mặt nám, cực khổ suốt đời, ấy là gia đình của tôi.

Khi cha tôi chết đã 3 ngày mà không có hòm chôn, đến xin ông chẳng được, mà vay tiền thì ông bảo phải trả lời 20. Chao ôi! Của đâu mà trả! Túng thế, tôi phải lẻn vào nhà ông, trộm lấy 5 lượng vàng để đem về chôn cất cha tôi.

Chôn cất xong tôi có thề với Phật Trời rằng: “Kiếp nầy trả không được, xin nguyện kiếp sau”.

Vì lao tâm cùng lao lực, bởi gia đình nghèo khổ nhiều năm, nên trong vài năm sau tôi phải lâm bịnh nặng, rồi từ biệt cõi đời! …

Sau khi chết, tôi đầu thai vào nhà ông, để thanh toán số nợ nần mà tôi đã thiếu ông ngày trước.

Ông sanh tôi ra, đến khi khôn lớn thì tôi vẫn lam lụ làm ăn, làm cho cửa nhà ông tiền vô như nước. Nợ ông thanh toán đã dứt khoát rồi, nên tôi đi nơi khác. Hôm nay ông còn tìm kiếm tôi làm gì?”

Nói xong, cậu bỏ đi. Ông trưởng giả lấy hai tay bụm mặt, nức nở khóc và than:

– Chao ôi! Vậy cảnh trần gian nầy có phải là một bãi trường để vay trả, trả vay nợ nần cho nhau chăng?

Chàng thí sinh khuyên lơn một hồi, rồi dẫn ông đi tìm bà trưởng giả. Hai người cùng đi được một khoảng đường, đến một cảnh âm u tịch mịch, ông trưởng giả thấy một người mình gầy vóc ốm chỉ còn da bọc xương, in như đã bị đói khát nhiều ngày. Đầu người bạc trắng phới, má hóp, đôi mắt sưng vù, đang ngồi rên khóc dưới một gốc cây. Ông bước gần đến mới nhận ra là bà trưởng giả. Ông gọi:

– Bà ơi! … Bà!

– Ai đó?

– Tôi là ông Trưởng giả đây. Vậy chớ tại sao thân hình bà tiều tụy, khổ sở đến thế nầy?

– Ông ôi! Ông ngồi xuống đây để tôi kể chuyện cho mà nghe. Vì tôi quá tham lam độc ác, muốn cho gia đình mình giàu có muôn hộ, mà tôi phải tạo nhiều tội lỗi. Tôi có ngờ đâu: Làm ra thì cả chồng con chung hưởng, mà bây giờ đây một mình tôi phải chịu tội khổ đến thế nầy! Ngày đêm đói khát, đã mấy tháng rồi không ăn được một chút cháo hay một miếng cơm. Thân hình tôi chỉ còn da bọc xương, lại còn bị hành phạt khổ sở lắm điều.

– Vậy chớ bà làm tội gì?

– “Ông không nhớ sao? Một lần nhà mình bị mất 5 lượng vàng, nghi cho thằng ở, bắt ra tra tấn, nó chịu không nỗi phải bỏ mình. Khi nó chết rồi, bỏ lại một ít tiền của. Ông bảo trả về cho gia quyến nó. Tôi lại giấu đi chẳng chịu trả. Đến khi vợ con nó kiện ra đến quan làng, tôi lại thề rằng: “Nếu tôi có nói ngược, thì cho hai con mắt của tôi chảy máu, đui và chết.”

Tưởng rằng không Trời không Phật, không ai hay biết, nào hay đâu: “Lưới Trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt”. Tôi vẫn tưởng thề càn cho qua buổi; không ngờ nhơn nào quả nấy. Khi các con chết rồi, tôi rầu khóc luôn mấy ngày đêm, bỏ ăn bỏ ngủ, nên đôi mắt chảy máu, sưng vù và đui mù đến thế nầy. Khổ sở lắm ông ơi! Ngoài ra còn nhiều tội ác không sao kể hết.

Hôm nay ông đến đây thăm tôi, nếu ông còn nghĩ chút nghĩa tào khang tình xưa bạn cũ, thì sau khi trở về dương thế, ông nên vì tôi mà chuẩn bần bố thí làm các việc từ thiện và cầu siêu độ cho vong hồn của tôi. Một điều ông phải nhớ là nên lo tu tâm dưỡng tánh, làm những điều hiền đức để nhờ kiếp sau.”

Đến đó, ông tỉnh giấc mộng trường, mồ hôi vả ra như tắm, trong lòng còn hoang mang sợ hãi vô cùng, ông Trưởng giả bỗng nghe trên không trung có tiếng gọi:

– “Trưởng giả! Ông trưởng giả! Ta đây là Quan-Thế-Âm Bồ-Tát. Vì thấy nhà ngươi là kẻ trần gian mê muội, chạnh lòng thương xót, cho nên ta hóa hiện làm chàng thí sinh để đến nhắc thức nhà ngươi.

Bởi nhà ngươi ngày trước tạo nhiều điều tội ác, nên ngày nay bị oan gia nghiệp báo đến báo lại ngươi. Ngươi hãy nhớ lại kỹ: Từ khi nhà ngươi sanh con trai đầu lòng, đến khôn lớn, nó chỉ phá hại gia tài sự sản của ngươi, đôi khi nó còn muốn giết cả vợ chồng ngươi để tự do phá của. Bởi mấy mươi năm về trước, ngươi có làm một việc tội ác, là buộc một người tá điền đem vợ con đến thế nợ. Chúng không làm theo ý muốn của ngươi. Lúc bấy giờ nhà ngươi dùng quyền thế ép chế, vì chịu không nổi nên chúng phải tự tử. Việc đó nhà ngươi còn nhớ chăng? Bởi thế nên chúng đầu thai lại nhà ngươi để báo thù cho đến ngày cuối cùng. Nhờ ngươi biết ăn năn hối ngộ, lo tu hành, nên nó chỉ đòi bấy nhiêu đó thôi.

Thằng thứ Hai là đứa ở của nhà ngươi. Ngươi nghi nó ăn cắp vàng, đem ra tra tấn đến chết. Cái oan hồn ấy trở lại nhà ngươi để báo thù, nên khi sanh ra cho đến lớn, nó cứ đau mãi, để hai vợ chồng ngươi phải lo chạy thuốc men, hao tốn gần hết tiền của. Và nó còn phá tán gia tài sự sản của ngươi. Nhờ người có tu hành, nên nó mới thôi đòi nợ.

Thằng thứ Ba, vì ăn trộm của ngươi năm lượng vàng, để đem về chôn cất cha nó, nên phải đến trả lại cho ngươi. Vì thế nên khi ngươi sanh ra nó, nó làm cho gia đình ngươi tiền vô như nước. Khi trả nợ xong rồi, nó đi nơi khác. Nhơn nào quả nấy, không có sai chạy.

Nhà ngươi nên biết: Do oan trái kiếp trước, nên kiếp nầy phải trở lại, kẻ làm vợ, người làm chồng và làm con cái v.v… để đền trả cho nhau đó thôi. Sách nói: “Vô oan trái bất thành phu phụ”. Nay chúng nó chết đi, là oan gia ngươi đã trả xong. Thế mà nhà ngươi mê muội không biết, lại hờn Trời oán Phật, tạo thêm tội lỗi, thật đáng thương xót!

Bởi trước kia người tạo cái nhơn tội ác, nên nay phải trả. Còn người mới tu hành vài ba năm nay, vì cái nhơn nầy chưa hoàn bị, nên người chưa được quả lành.

Thí như người năm nay làm 100 công ruộng, mà vẫn bị thiếu trước hụt sau, là vì năm rồi họ chỉ cờ bạc ăn chơi nợ nần ấp lút, nên năm nay phải chịu thiếu hụt. Còn ruộng làm năm nay tuy nhiều, xong sang năm họ mới hưởng được.

Một thí dụ thứ hai: Như chú Xoài trộm cướp sát nhơn, chú mới vừa buông cái dao vào chùa tu niệm; ít ngày bị lính đến bắt bỏ tù. Không phải vì tu mà bị lính bắt, mà chính vì chú gây cái nhơn trộm cướp trước kia, nên nay bị cái quả ở tù. Còn sự tu hành làm phước hiện nay, phải thời gian sau mới hưởng quả.

Người đời không thấy xa, chỉ nhìn hiện tại, rồi vội vàng trách móc Phật Trời: “Tôi tu hành lo làm lành làm phước, sao lại gặp tai nạn thế nầy!”

Nhà ngươi là người có học thức, sao lại chẳng nhớ câu: “Thiệc ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lại tảo dữ lai trì” nghĩa là: làm lành hay làm dữ, rốt cuộc rồi đều có quả báo, chẳng qua đến sớm hay đến muộn mà thôi .

Trong kinh nói: “Dã sử bá thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhơn duyên hội ngộ thời quả báo hoàn tự thọ” nghĩa là: người tạo ra một nghiệp gì, dầu trải qua trăm ngàn muôn kiếp cũng không mất, khi nhơn duyên đến rồi, quả báo nầy phải chịu.

Vậy nhà ngươi từ đây nên ăn năn hối ngộ lo tu tâm dưỡng tánh, để nhờ kiếp sau…”

Nhờ mấy lời giáo hóa của đức Quan-Thế-Âm Bồ-Tát, mà ông phú trưởng giả kia được giác ngộ, hồi tâm hướng thiện, tinh tấn tu hành.

Tòa lâu đài nguy nga đồ sộ của ông trước kia, lúc bấy giờ biến thành chốn thiền lâm tu niệm, là nơi lễ Phật đi chùa của khách hành hương rộn rịp…

Soạn Giả: Huyên

http://www.tangthuphathoc.net/truyenpg/ongtruonggiakenre.htm

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.