Nói Chuyện Tu Tịnh Độ

Trong mấy năm gần đây phong trào tu Tịnh độ và đạo tràng Phật thất đã từng bước hình thành và nhân rộng khắp cả nước.

Có một số Phật tử tại gia và những nhà học giả nghiên cứu đến hỏi tôi về lịch sử Tịnh độ tông ở Việt Nam.

Tôi đáp : Căn cứ vào lịch sử Phật giáo Việt Nam,thì Tịnh độ tông không có sự truyền thừa từ đời theo thế hệ như ở Trung Quốc. Việt Nam Phật giáo, Thiền tông luôn là chủ lực tinh thần kiêm hoằng dương các tông, Tịnh, Mật, Giáo – xem lịch sử truyền thừa và hành trạng chư Tổ sư các Thiền phái Việt Nam.

 Nhưng vào giữa thế kỷ thứ 19 do hoàn cảnh xã hội của vùng đất đồng bằng sông Cửu Long, cần phải có những giáo phái đơn giản hóa Phật giáo, nhằm đáp ứng cho tầng lớp Công Nông tay lấm chân bùn, có tỷ lệ ít biết đọc chữ rất cao, cho nên Kinh điển phải diễn dịch theo thể loại văn vần, Song thất – Lục bát. Đọc ngân nga theo vần điệu dân ca. Ai đó đã thuộc lòng thì mỗi khi làm nông cày cấy, lúc đau lưng, nhức mõi thì cứ ngân nga lãnh lót, Ê.. A..vài câu để mọi người thưởng thức pháp âm vi diệu của Phật Tổ, để cùng nhau ôn nhớ thuộc long để lo tu tâm sửa tánh. . .
Việc này bắt nguồn từ Thiền sư Minh Huyên hiệu Pháp Tạng thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 38 (là một trong những đồ đệ ưu tú của Tổ sư Tiên Giác – Hải Tịnh, tổ đình Giác Lâm, Gia Định), được người đời tôn xưng là Phật Thầy Tây An, vì Ngài Trụ trì Tổ đình Tây An, núi Sam, Châu Đốc. Ngài khai sáng giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương vào năm 1949 và từ mạch nguồn ấy truyền nhiều thế hệ cho đến Phật tử Ngô Lợi khai sáng giáo phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật tử Huỳnh Phú Sổ đã khai sáng giáo phái Phật giáo Hòa Hảo
Vào năm 1939, là thế hệ thứ năm.
Truyền thống các giáo phái này đều cùng một Tông chỉ, do Phật Thầy Tây An chủ xướng : “Phật Phật Tu Nhân” làm nổi bật giáo lý : “Tứ TrọngÂn”. Nhưng phải đặt Ân Tổ Quốc trên hết khi Đất nước lâm nguy – Sơn hà nguy biến, chỉ thuần niệm danh hiệu Phật A Di Đà cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Đầu thế kỷ 20 vào thời chấn hưng Phật giáo thì có Phật tử pháp danh Minh Trí sáng lập Tịnh Độ Cư Sĩ ngài dựng lập Tông chỉ : “Phúc Huệ Song Tu”.
Tu Phúc là chuyên làm từ thiện, duy trì và phát triển nền Y học Dân tọc Cổ truyền. Ngài dạy xem mạch bốc thuốc để điều chỉnh cho bệnh nhân thân tứ đại điều hòa, còn người do Thẩt tình Lục dục làm Thất điên Bát đảo, tâm, trí loạn động thì dùng Bát Chánh Đạo và trì danh niệm Phật để Tâm an tịnh.
Tu Huệ là Niệm Phật cầu Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, lấy ba thứ kinh : – A Di Đà – Kinh Vô Lượng Thọ – Kinh Quán Vô Lượng Thọ làm Kim Chỉ Nam. Dùng Kinh Thiện Sinh (Lễ bái lục phương) làm Kim chỉ nam cho Phật tử tại gia đối nhân xử thế theo luân thường Đạo đức xã hội.
Vào đầu thập niên 50 giữa thế kỷ 20, Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, hiện đương kim đệ nhất Phó Pháp Chủ – Chủ tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật giáo Việt Nam. Ngài đã khởi xướng phong trào chuyên tu Tịnh Độ và trước tác quyển : Đường Về Cực Lạc cùng dịch và giảng giải các kinh sách Tịnh Độ làm rõ lời Phật ý Tổ, ngõ hầu khuyến tấn mọi người đồng Sanh Tây Phương Cực Lạc Thế giới, đồng thành Phật đạo.
Năm 1967, Hòa thượng Thích Thiền Tâm ngài ý nguyện tiếp nối theo đường lối của bậc Thầy Tổ đi trước. Năm 1967, Ngài đến Đại Ninh, ấp Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, kiến thiết Hương Quang Thất, chuẩn bị cho giai đoạn ẩn tu.
Năm 1968, Hòa thượng chính thức về trụ hẳn ở Đại Ninh, lập nên đạo tràng Tịnh độ. Ngài không câu nệ vào việc nhập thất, mà sẵn sàng tiếp hóa chư Tăng Ni Phật tử đến tham vấn học đạo, Ngài còn soạn thuật: Niệm Phật thập yếu, Tây phương nhựt khóa, Tịnh độ pháp nghi và phiên dịch kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni. Ngày nay khu này thành một Liên xã Tịnh Độ.
Thiền sư Thích Duy Lực là người chuyên hoằng dương Tịnh độ, hướng dẫn người Hoa tu Tịnh độ mấy mươi năm và Ngài là người khởi xướng Niệm Phật Thất tại Việt Nam trong thế kỷ 20.
Dịp các tự viện và tư gia Phật tử khắp nơi cúng lễ vía Đức Phật A Di Đà và cũng là sắp đến tưởng niệm ngày cố Thiền sư Thích Duy Lực Viên tịch lần thứ 11, môn đồ pháp quyến chúng tôi thành kính ghi lại những lời khai thị của Ngài về Tịnh Độ để gởi đến quý đọc giả chúng ta cùng tham khảo :
Hỏi : Thế nào là Tông chỉ của Tịnh độ ?
Đáp : Tông chỉ của Tịnh độ là : TÍN, NGUYỆN, HÀNH
 
* TÍN : Có ba thứ :
– Tin lời Phật Thích Ca chẳng dối gạt người.
– Tin cõi Cực Lạc không già, không bệnh, không chết, muốn gì được nấy.
– Tin mình kiếp này sẽ được Vãnh sanh, chẳng cần đợi kiếp sau.
* NGUYỆN : có hai thứ :
– Tiểu nguyện : Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là giết một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt ? Nên phải phát đại nguyện.
– Đại nguyện : Ví như mình hiện nay không có tiền mặt để trả nợ, ký phiếu hẹn đến kỳ sau. Sau này được sanh cõi Cực Lạc rồi, thành Phật trở về độ hết tất cả chúng sanh. Ngoài phát nguyện như thế, còn phải thực hành.
HÀNH : Cần nhất là phải hành theo đại nguyện của mình, nếu không thực hành là nguyện giả, cũng như người tu Tịnh Độ mà không ăn chay là nguyện giả. Tại sao ? Vì đã phát nguyện độ chúng sanh, còn ăn thịt chúng sanh, chẳng phải nguyện giả ư ? Như câu hồi hướng trong Kinh Di Đà :”Thập phương tam thế Phật, A Di Đà đệ nhất, phàm hữu chư phước thiện, chí tâm cùng hồi hướng”, tức làm bất cứ việc phước thiện gì đều hồi hướng cho tất cả chúng sanh, trong đó có chủ nợ của mình. Bất cứ con người hay súc sinh; gặp con chó cũng phải phát tâm độ, mặc dù con chó không biết nghe mình nhưng cũng nói, gặp con mèo thì độ con mèo. Thử hỏi hiện nay có ai làm như vậy không ? Có người phát tâm tu Tịnh Độ đã hơn ba mươi năm, cũng có phát đại nguyện, nhưng hỏi về phần thực hành thì không có.
Hỏi : Về vấn đề tu Thiền nhờ tự lực, và Tịnh Độ nhờ tha lực như thế nào ? 

Đáp : Tất cả phương tiện của Phật dạy đều phải nhờ tự lực, phải tự ngộ chứ không thể nhờ tha lực. Nói Pháp môn Tịnh Độ nhờ tha lực là sai lầm; bởi tông chỉ của Tịnh Độ là TÍN, NGUYỆN, HÀNH, cũng là nhờ tự lực. Nhất là về cái nguyện, khi đã phát đại nguyện rồi thì phải thực hành, ấy là nhờ tự lực. Niệm Phật cũng phải tự lực tự làm, chẳng được nhờ người khác niệm dùm.
Tông phái nào cũng phải nhờ tha lực, nhưng tự lực là chánh, tha lực là trợ duyên. Còn nói Thiền tông là nhờ tự lực chẳng nhờ tha lực cũng không đúng, tại sao ? Thế có phải khi mình sanh ra đã biết tham Thiền đâu ! Pháp môn này là do Phật dạy, ấy là trợ duyên; do chư Tổ truyền lại đời sau, ấy là trợ duyên; Thầy dạy chúng ta tham Thiền, ấy cũng là trợ duyên, là tha lực.. Cho nên chẳng có Tông phái nào chỉ nhờ tự lực hoặc chỉ nhờ tha lực mà được, tại con người chấp tâm sai lầm thôi.
Hỏi : Trước tu Tịnh độ, nay chuyển qua tham Tổ Sư thiền được không ?
Đáp : Mục đích tu Tịnh Độ hay tham Tổ Sư Thiền đều là để giác ngộ thành Phật, giải quyết tất cả khổ. Chỉ là Pháp Tịnh Độ thuộc pháp thiền gián tiếp, Tổ Sư Thiền là pháp thiền trực tiếp. Đức Phật dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, chỉ có Tổ Sư Thiền là pháp trực tiếp, ngoài ra đều là pháp gián tiếp. Lại, tu pháp môn nào phải đúng theo tông chỉ pháp môn đó mới được thành tựu, nếu tu không đúng, chẳng những không được thành tựu, có thể trở thành ngoại đạo.
Pháp môn Tịnh Độ là do pháp sư Huệ Viễn đời nhà Tấn Trung Quốc dựa theo Kinh Di Đà và Kinh Vô Lượng Thọ sáng lập, chứ chẳng phải do Phật Thích Ca sáng lập hay từ Ấn Độ truyền qua. Trong đó có bảy vị Tổ là tu theo Tổ Sư Thiền kiến tánh rồi, tùy theo nhân duyên giúp cho Tịnh Độ hoằng pháp. Đến Tổ thứ 13 là Pháp sư Ấn Quang, sau đó mấy mươi năm nay chưa có Tổ thứ 14.
Còn Tổ Sư Thiền là do Phật Thích Ca truyền cho ngài Ma Ha Ca Diếp, rồi do Tổ sư từng đời truyền xuống, đến đời tôi, mỗi đời đều có sự truyền thừa rõ ràng.Đối với Lịch sử Thiền tông ở Việt Nam tôi chưa được rõ, nghe nói Tổ Sư Thiền ở Việt Nam là truyền từ Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi rồi thành tông phái mang tên ngài, và các tông Thiền phái như : Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Trúc Lâm, Lâm Tế, Tào Đồng hay dòng thiền của ngài Liễu Quán. Đến nay đã thất truyền gần hai trăm năm, có Tổ sư từ Trung Quốc qua Việt Nam dạy về pháp môn Tổ Sư Thiền, sau đó cũng thất truyền.

Còn Tổ sư Tịnh Độ của Việt nam thì không nghe nói, cũng không biết do vị Tổ nào sáng lập, đa số do tự mình xem sách, nhiều người tự lấy ý mình tu, cho tụng kinh niệm Phật là tu Tịnh Độ. Còn hỏi về tông chỉ của Tịnh Độ thì nói là; Tụng kinh, niệm Phật, ăn chay, phát nguyện. Sự thật, tông chỉ của Tịnh Độ là TÍN, NGUYỆN, HÀNH.
 
Hỏi : Vậy có Tông chỉ Tịnh độ không ?
Đáp : Theo Phật pháp, nguồn gốc của Bản thể là Phật tánh, đức Phật gọi là Chơn như Phật tánh. Bản thể của Phật tánh không dính líu với Có Không. Có Không là nguồn gốc của 62 kiến chấp, phàm có đối đãi là nhị biên, là biên kiến, thuộc một trong năm thứ ác kiến. Hễ chấp thật Có và Không đều lọt vào biên kiến, nên Phật dạy phải lìa tứ cú, tuyệt bách phi, nếu chấp thật sự có và không, đã nghịch với bản thể tự tánh, dẫu cho siêng năng tu tập, cũng chẳng thể thành tựu.
Hỏi : Thiền tông và Tịnh độ một thể phải không ?
Đáp : Nói thì đúng, nhưng sự hiểu không đúng. Cách thực hành giữa Tổ Sư Thiền và Tịnh Độ có khác, nhưng mục đích không khác, chỉ là pháp thiền trực tiếp hay gián tiếp mà thôi. Tức Tổ Sư Thiền có thể kiến tánh lúc còn sống, không cần đợi sau chết mới vãng sanh.
Tịnh Độ dù được vãng sanh, vẫn chưa được kiến tánh. Tại sao ? Vì tất cả pháp đều không ngoài nhân quả. Nhân vô vi mới được quả vô vi, nhân hữu vi chỉ được quả hữu vi. Do cách tu của Tịnh độ chỉ gieo được nhân hữu vi, bản thể Tự tánh không đối đãi, chẳng thuộc Có Không, nên khi thực hành theo đường lối, phải gieo nhân vô vi mới được quả vô vi.
Tịnh độ cuối cùng cũng thành Phật, nhưng còn xa, vì là pháp gián tiếp. Người được sanh cõi Tịnh độ mới bắt đầu tu, nếu sanh nơi biên địa, là chưa được vào cõi Tịnh độ, sanh nơi Hạ phẩm phải ở trong hoa sen mười hai đại kiếp mới được ra; Một đại kiếp gồm bốn trung kiếp, một trung kiếp gồm hai mươi tiểu kiếp, một tiểu kiếp là mười sáu triệu năm.
Quý vị thử nghĩ xem là bao lâu ?
Còn tu pháp Tổ Sư Thiền, có thể ngay trong kiếp này được kiến tánh, như Long nữ trong Kinh Pháp Hoa tám tuổi thành Phật. Cho nên, pháp trực tiếp với pháp gián tiếp có khác, nhưng khi thành Phật là không khác.
Như trên đã nói, phải gieo nhân vô vi mới được quả vô vi, người tu Tịnh độ sau khi sanh cõi Tịnh độ, lòng tin vững chắc rồi, bỏ được chấp tâm, mới chuyển từ niệm Phật qua tham thiền, từ nghi đến ngộ. Nghi tình là nhân vô vi, mới được sự Ngộ là quả. Tại sao nói Nghi tình là nhân vô vi ? vì Nghi tình là tâm không biết, chẳng dính mắc gì cả. Hễ có dính mắc là hữu vi.
Hỏi : Con nghe nói Tịnh độ niệm Phật một câu tiêu tám muôn ức kiếp tội, nay tham thiền thì sao ? Được mau tiêu tội không ?
 
Đáp : Chớ nói niệm một câu Phật hiệu tiêu được tám muôn ức kiếp tội, hễ niệm Phật một câu tiêu được một ngày tội cũng đủ rồi ! Cứ suốt ngày tạo tội, chỉ cần niệm một câu Phật liền tiêu, vậy thì đâu có sợ tạo tội ! Một kiếp biết bao lâu không ? Hễ một câu niệm Phật tiêu được tám muôn ức kiếp tội, thì hiện nay tội đã không còn.
Niệm Phật hiệu rất dễ, đời người chỉ có một trăm năm, vậy cứ tạo tội mãi mà chẳng sao !
Nếu được như thế, đâu cần làm thiện, cực khổ tu hành làm gì ? Nên biết câu nói trên là sai, vì không có nhân quả, tức tạo ác nhân cũng được thiện quả ? Việc không có nhân quả là phá hoại Phật pháp, không nên theo.
This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.