Tội & Nghiệp

Ðến đây, chúng ta cần hiểu rõ, phân biệt rõ: thế nào là “tội và nghiệp”, và thế nào là “tội báo và nghiệp báo”.  Sau một thời gian tu hành nào đó, khi tâm được thanh tịnh, ba nghiệp không còn, thân khẩu ý hoàn toàn thanh tịnh, “tội và nghiệp” không còn nữa, bởi vì chúng ta không còn tạo nghiệp, không còn tạo tội.  Do thành tâm sám hối, “tội và nghiệp mới” không còn tạo ra nữa, nhưng tội báo và nghiệp báo, nói chung là quả báo, từ “tội và nghiệp cũ” vẫn còn.  Chúng ta đã tạo “nghiệp nhân” thì nhứt định phải nhận “nghiệp quả”, không thể chạy đâu cho khỏi.  Người đời thường gọi đó là “số trời đã định”, hay “định mệnh đã an bài”, hoặc “chạy trời không khỏi nắng”, chính là nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:

Dù trốn lên non,
xuống biển vào hang,
nghiệp báo đã mang,
không ai tránh được.

Các bậc thánh thiện là những người đã thanh tịnh được tam nghiệp nên có cuộc sống an nhàn, tự tại trong nội tâm, trong tâm thức. Tuy nhiên, trên hình thức bên ngoài, chúng ta thấy cuộc sống của các vị giáo chủ, của các bậc thánh nhơn không phải là không có sóng gió, không phải là không có chuyện bất trắc xảy ra.  Có khi các ngài vẫn bị vu cáo, nhục mạ, phỉ báng, xét xử, kết án và thậm chí, bị hành hình như những tội phạm hình sự.  Tại sao vậy?

Bởi vì, các ngài tuy đã dứt hết các “tội và nghiệp” đời này, nhưng tội báo và nghiệp báo, nói chung là “quả báo”, từ nhiều đời và nhiều kiếp trước vẫn còn, các ngài vẫn phải trả.  Các ngài, cũng như bất cứ ai, không thể đứng ngoài luật nhân quả được.  Chẳng hạn như: Vào cuối thế kỷ thứ ba, vị tổ thứ hai mươi bốn là Aryasimha tuy đã đắc đạo, nhưng vẫn bị vua Kế Tân chém đầu.  Vào đầu thế kỷ thứ bảy, vị tổ thứ hai mươi chín, là Tổ Sư Huệ Khả, bị vu cáo và bị giam đến chết trong ngục, thọ 107 tuổi!  Tổ Bá Trượng Hoài Hải trong một buổi thuyết giảng, có gặp một ông lão, nguyên là một vị Hòa Thượng, vì hiểu sai và giảng sai luật nhân quả, cho là một khi con người đắc đạo rồi, thì không phải trả quả báo, thoát ngoài luật nhân quả, cho nên phải bị đọa 500 kiếp chồn.

Chúng ta cũng thường hay nghĩ như vậy, cho là sám hối xong thì sạch tội và sẽ được bình an, không tai nạn gì nữa cả, không phải trả quả báo!  Hiểu như vậy là sai!  Chúng ta thường lầm lẫn “tội nghiệp mới” với “quả báo cũ”.  Chúng ta cần nên biết rằng chúng ta không thể nhờ bất cứ ai tha tội, xóa tội, miễn tội, gánh tội thay thế cho chúng ta được.  Tại sao vậy?  Bởi vì như vậy trái với luật nhân quả, lẽ công bằng và không hợp tình, hợp lý chút nào.  Trong tam tạng kinh điển, Ðức Phật chỉ dạy rất rõ ràng vấn đề “tội và báo” này.  Khi nào chúng ta không còn tâm si mê muốn quịt nợ, chúng ta sẽ nhận biết được dễ dàng hơn, thấu đáo hơn, không còn bị dối gạt, không còn lầm lẫn nữa.

Chúng ta thử xét thí dụ sau đây, để hiểu biết thêm về “tội báo, nghiệp báo, quả báo, và phước báo”.  Theo luật nhân quả, do hậu quả của tội lỗi đã làm, gọi là “nghiệp nhân”, con người gặp những bệnh tật, những tai nạn, những bất trắc ở đời, gọi là “nghiệp quả hay nghiệp báo”.  Con người phải gánh chịu “quả báo hay tội báo” như vậy, ví như phải ăn một nắm muối.  Phải ăn  một nắm muối thì khổ biết là bao nhiêu.  Nếu như con người có thể bỏ nắm muối vào tô nước rồi uống thì có lẽ dễ chịu hơn chút đỉnh.  Nếu như con người có thể bỏ nắm muối vào lu nước rồi uống thì dễ chịu hơn chút nữa.  Nếu như con người có thể bỏ nắm muối đó vào hồ nước lớn rồi uống thì chắc là câu chuyện không thành vấn đề nữa rồi.

Nắm muối bị bắt buộc phải ăn tượng trưng cho “tội báo, nghiệp báo, hay quả báo”, do những tội lỗi chúng ta đã làm từ nhiều đời trước hay đời này. Nước trong tô, trong lu, trong hồ tượng trưng cho “phước báo” ít hay nhiều, chúng ta đã tạo được từ những việc làm phước thiện, phước đức, trong các đời trước hay đời này. Như vậy, nếu con người phải đền trả hoàn toàn đầy đủ những tội lỗi do chính mình gây ra, đời trước hay đời này, thì có khi phải tán gia bại sản, bệnh tật ngặt nghèo, nguy hại tánh mạng.  Nhưng nhờ đã làm các việc phước thiện, nên có  “phước báo” để bù đắp, cho nên hoàn cảnh khổ đau, tai nạn có thể được giảm bớt hay hóa giải đi. Chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Ví như con người có tiền tiết kiệm để dành, có thể đem trả, trừ bớt nợ hay trừ dứt nợ xưa vậy.

Bởi vậy, làm việc phước thiện, tạo phước đức, có phước báo, để tiêu trừ tội nghiệp là thái độ tích cực và hợp đạo lý, đối với bất cứ ai trên thế gian này, hơn là việc cầu nguyện thượng đế để xin xá tội, để chạy tội, hoặc đổ hết tội lỗi của mình cho thượng đế gánh giùm!  Thật là thảm thương thay cho thượng đế do con người đặt ra, tưởng tượng ra, để gánh vác hết tội lỗi của nhân loại trên thế gian này!

Con người vốn hay muốn quịt nợ, muốn trốn tránh trách nhiệm, không sợ nhân chỉ sợ quả, không bao giờ nhìn nhận những việc sơ sót, sai trái, tội lỗi, lỗi lầm, chính mình đã làm, chỉ biết trách cứ người khác, đổ thừa tại người này, đổ thừa tại việc kia, không bao giờ dám nhận là “tại mình”, không bao giờ chịu nhận là “lỗi tại tôi mọi đàng”.  Tại sao vậy?  Bởi vì con người không hiểu thấu đáo, không biết tin sâu luật nhân quả vậy.

Tóm lại, trong kinh sách, Ðức Phật có dạy:

Tam nghiệp hằng thanh tịnh.
Ðồng Phật vãng tây phương.

Nghĩa là nếu như lúc nào ba nghiệp của chúng ta đều thanh tịnh, lặng yên, trong sáng, thân không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, khẩu không nói dối, không nói lời thị phi, không đâm bị thóc thọc bị gạo, không xuyên tạc phỉ báng, không vu khống cáo gian, ý không còn tham lam, sân hận, si mê, thì chắc chắn chúng ta sẽ được an lạc và hạnh phúc hiện đời, sẽ cùng chư Phật về cõi tây phương cực lạc sau này.

Những người không thấu hiểu lẽ này, nên nghĩ là có thể “đới nghiệp vãng sanh”, tức là còn mang nghiệp mà vẫn có thể vãng sanh tây phương, nhờ vào câu niệm Phật A Di Ðà.  Ðó là một sự suy nghĩ sai lầm lớn lao của người tu đạo, không đúng Chánh Pháp.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: Tất cả nghiệp chướng đều do vọng tưởng, nếu muốn sám hối, hãy ngồi tĩnh tâm quán sát thực tướng. Nghĩa là khi quán sát thực tướng, nếu người nào biết được tánh chúng sanh là tánh niết bàn thì người ấy cùng cực giải thoát.

Trong kinh sách có câu:

Phật và chúng sanh tánh thường rỗng lặng“,

hay:

“Năng lễ sở lễ tánh không tịch”,

chính là nghĩa này vậy.

Xét cho đến ngọn nguồn, tội nghiệp đều do vọng tưởng điên đảo mà sinh ra. Nhưng tâm vọng tưởng điên đảo ấy cũng như luồng gió giữa chốn hư không, chẳng có chỗ nào trụ, chẳng có chỗ nào dính mắc.

Khi chưa thấu hiểu chân lý, mang mang mờ mờ mịt mịt, cho nên chúng ta mới gây tội nghiệp, nhưng lại chỉ thấy tội nghiệp của người khác.  Ðến khi rõ lý lẽ, tất cả tội lỗi trước đây thảy đều tiêu diệt, bởi chúng ta đã thấy tội nghiệp của chính mình.  Lúc ấy mới biết một cách rốt ráo, tất cả đều là không: không có tội lỗi gì để mà tiêu diệt, không có tội nghiệp gì để mà tạo tác, không thấy có nghiệp báo gì để mà gánh chịu, cũng không còn sanh tử luân hồi nữa vậy.

Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ

http://www.daophatngaynay.com/

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.