Nhìn Thấu Là Trí Huệ Chân Thật

Nguyên nhân khiến cho người đời nay niệm Phật không bằng người xưa cũng là vì không thể “nhìn thấu, buông xả”. Chữ nhìn thấu (thấy thấu suốt) là trình độ hiểu rõ đối với trạng thái sanh hoạt hiện thực; nếu chúng ta không hiểu rõ, ham mê luyến tiếc thế gian thì đương nhiên sẽ không thể buông xuống. Cho nên quá nửa những người niệm Phật vãng sanh là những người già bảy tám chục tuổi, vì họ nhìn thấy nhiều, từng trải nhiều, biết hết thảy những việc trong thế gian đều là hư ảo không thật, bất luận sống trong cảnh thuận hoặc nghịch, trải qua một thời gian dài sẽ chán chường, cảm thấy chán ghét cuộc sống, không muốn ở lại thêm nữa, đến lúc ấy sẽ buông xuống hết, đây là một yếu tố rất quan trọng. Nếu cảm thấy thế gian này còn rất đẹp đẽ, vẫn còn muốn sống thêm vài năm nữa, thậm chí muốn sống thêm vài chục năm, vài trăm năm nữa, họ không thể buông xả, buông xuống thì công phu làm sao có thể đắc lực cho được! Phật pháp nói đến chuyện giác ngộ tức là giác ngộ việc này.

4. Có một vị đồng tu mới học Phật chưa bao lâu nhìn thấy những người đã tu lâu năm, niệm Phật mấy chục năm cũng chưa vãng sanh, hỏi họ có nắm chắc mình sẽ vãng sanh hay không? Họ lắc đầu, cho nên vị đồng tu sơ học này mới thắc mắc và hỏi lão hòa thượng: “Mỗi ngày niệm Phật tại Niệm Phật Đường, thậm chí mỗi ngày niệm Phật suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ, người như vậy có thể vãng sanh hay không?”

Lão hòa thượng trả lời: “Tôi không thể nói người đó không vãng sanh. Tôi cũng không thể nói người đó có thể vãng sanh”.

Nguyên nhân là gì? Vì vãng sanh cần phải có hai điều kiện.

Điều kiện thứ nhất là lòng tin phải chân thật, tâm nguyện phải thiết tha, đó gọi là “chân tín, thiết nguyện”.

Điều kiện thứ hai là: “Buông xuống vạn duyên”.

Đầy đủ hai điều kiện này chắc chắn được vãng sanh! Thiếu một trong hai điều kiện này chưa chắc vãng sanh được.

Tuy chúng ta có lòng tin chân thật, tâm nguyện thiết tha muốn vãng sanh, nhưng trên thế gian này vẫn còn nhiều chuyện vướng mắc trong lòng, chưa buông xuống được, vậy thì không thể vãng sanh. Cho nên chúng ta phải buông xuống! Người xưa nói “tin sâu, nguyện thiết”, đầy đủ Tín, Nguyện, Hạnh nghĩa là nói rõ đã buông xuống hết rồi, như vậy thì mới được. Nhưng đối với con người hiện thời, nhất định phải giải thích rườm rà thêm một chút, nói rõ thêm vài câu: Nếu chúng ta đối với thế gian này còn lưu luyến, còn vương vấn, còn dính mắc, còn ân oán, thí dụ như: “Có người nào đó đối với tôi có ân, tôi còn chưa báo đáp. Người kia có thù hằn với tôi, tôi chưa trả thù”, như vậy thì có vãng sanh được hay không? Không lẽ A Di Đà Phật sẽ đợi chúng ta đền ơn, báo thù xong rồi mới trở lại tiếp dẫn chúng ta hay sao, lẽ nào như vậy? Vì thế nhất định phải buông xuống hết những thứ thị phi, nhân ngã, danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, trong tâm phải trống rỗng, mảy trần chẳng nhiễm. Sau đó, đầy đủ lòng tin chân thật, tâm nguyện thiết tha, người như vậy nhất định vãng sanh. Niệm Phật nhiều hay ít không thành vấn đề.

Nếu chúng ta không buông xuống được, lòng tin không chân thật, tâm nguyện vãng sanh không thiết tha, dù mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, cũng là như người xưa nói “hét bể cổ họng cũng luống công vô ích”, không phải đã nói quá rõ ràng rồi sao? Người như vậy không thể nào vãng sanh.

Đức Thế Tôn trong kinh điển đã cảnh cáo chúng ta: “Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ là năm gốc rễ của địa ngục”, nếu phạm một trong năm thứ này chúng ta sẽ không thể nào vãng sanh được. Nếu năm thứ này trọn đủ không sót một thứ nào, dù A Di Đà Phật muốn kéo cũng kéo không nổi, chúng ta còn có thể vãng sanh hay sao? Do vậy chúng ta nhất định phải chặt đứt những gốc rễ này, chướng ngại vãng sanh của chúng ta sẽ không còn nữa.

5. Trong kinh có nói Phật không thể chuyển được Định Nghiệp. Định nghiệp là gì? Tự mình làm tự mình chịu. Có thể không lãnh nhận hay không? Có thể, khi ngộ rồi không còn phải thọ nữa, khi mê vẫn phải thọ; cũng có nghĩa là người đã buông xuống thì không còn phải lãnh nhận nữa, chưa buông xuống được thì phải lãnh nhận. Chúng ta phải tự hỏi chính mình tự tư tự lợi đã buông xuống chưa? Nếu chưa buông xuống thì vẫn phải thọ! Tham, sân, si, mạn đã buông xuống hay chưa? Thị phi nhân ngã đã buông xuống hay chưa ? Chưa buông xuống, những nghiệp chúng ta gây tạo đời này hoặc đời trước, thiện nghiệp nhất định có thiện quả, ác nghiệp nhất định có ác báo, chúng ta hết thảy đều phải lãnh nhận hết, chừng nào chúng ta giác ngộ, vừa giác ngộ, vừa hồi đầu sẽ khác hẳn. Giống như khi chúng ta nằm mơ vậy, trong mộng chúng ta còn có cảm nhận hay không? Trong mộng gặp chuyện vui sướng, chúng ta có lạc thọ; trong mộng gặp tai nạn, chúng ta có khổ thọ. Một khi tỉnh giấc sẽ không còn nữa! Chỉ là như vậy mà thôi, khi nào chúng ta từ trong mộng tỉnh dậy sẽ không còn phải lãnh nhận nữa.

6. Ngày nay chúng ta tu hành, phiền phức ở chỗ nào? Ở chỗ chúng ta thật sự có phân biệt, thật sự có chấp trước, vậy thì phiền quá, chưa buông xuống phân biệt, chấp trước của chính mình, chưa buông bỏ được. Phật dạy chúng ta buông xuống là buông xuống những thứ này, buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính mình, chẳng phải là của người khác. Người khác thì sao? Của người khác thì chúng ta phải tùy thuận, phải thuận theo những vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của họ, và buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính mình. Trong sự tùy thuận đó, công đức đã thành tựu. Trong tùy hỷ đã có công đức, thành tựu Định Huệ cho chính mình. Vì sao phải tùy thuận? Vì không tùy thuận, cảnh giới tu học của chúng ta sẽ không thể nâng cao. Tùy thuận cảnh giới nhưng không khởi tham ái, vì sao không khởi tham ái? Chính mình không còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, vì không khởi tham ái thì cảnh giới chúng ta sẽ được nâng cao. Tùy thuận nghịch duyên, đối với ác cảnh không khởi tâm sân khuể, vì sao không sanh sân khuể? Vì chính mình đã không còn phân biệt, chấp trước, cảnh giới của chính mình lại được nâng cao.

7. Phật dạy: Trí huệ viên mãn rốt ráo không phải chỉ có chư Phật mới có, mà hết thảy chúng sanh đều đầy đủ, ai nấy đều không thiếu, hết thảy mọi người đều có. Đã có, vì sao nay chúng ta lại cảm thấy như là hoàn toàn không có trí huệ, do nguyên nhân nào? Vì tâm lượng nhỏ nhoi, tâm lượng không rộng lớn, cho nên trí huệ chúng ta không thể hiện tiền. Trí huệ thuận theo tâm lượng mà mở rộng, tâm lượng chúng ta càng rộng lớn, trí huệ chúng ta sẽ càng to lớn. Chư thiên so với cõi người chúng ta trí huệ càng rộng lớn hơn, do đạo lý nào? Vì họ có tâm lượng lớn hơn chúng ta. Chư thiên Sắc Giới ngoại trừ tu Thiền Định, còn phải tu Tứ Vô Lượng Tâm, [tức là] Từ Bi Hỷ Xả, cho nên tâm lượng của họ đương nhiên to lớn hơn chúng ta, trí huệ rộng lớn hơn chúng ta. Tâm lượng Thanh Văn lớn hơn [chư thiên trong] cõi trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Tâm lượng Bích Chi Phật lớn hơn A La Hán. Tâm lượng Bồ Tát lớn hơn hàng Nhị Thừa. Tâm lượng càng lớn thì trí huệ từ trong bản tánh chúng ta lại càng tỏ lộ nhiều hơn. Vì thế, chớ nên có tâm lượng nhỏ hẹp, tâm lượng hạn hẹp là mê! Cho tới hàng Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn một phần pháp chấp chưa phá bỏ, vì thế, tâm lượng của họ không bằng Phật, tâm của Phật mới thật sự đạt đến viên mãn rốt ráo. Nếu hiểu rõ sự thật này, chúng ta mới hiểu rõ việc mở rộng tâm lượng rất quan trọng! Bồ Tát tu hành dạy chúng ta xả, bảo chúng ta buông xuống, xả những gì? Nói thật ra, chính là xả cái tâm lượng nhỏ nhoi ấy, xả phân biệt, chấp trước. Hễ còn phân biệt, chấp trước thì tâm lượng không lớn; khi xả hết rồi mới là viên mãn Bồ Đề, tức là đạt đến vô thượng.

8. Thông thường mỗi khi có tranh chấp, nhất định là do chấp trước thành kiến của mình, tự cho mình là đúng. Nếu hai người đều cho là mình đúng nên mới có sự tranh chấp, nếu anh ấy cho là đúng, tôi không tự nghĩ mình là đúng, sẽ không có chuyện gì xảy ra. Họ tranh còn tôi nhường, tranh cãi chẳng còn dấy lên. Đánh nhau thì phải do hai người đánh đấm, nếu một người đánh, một người nhường, chẳng còn đánh nhau nữa! Mắng chửi cũng vậy, hai người chửi mắng nhau thì mới ầm ĩ, một người mắng, một người nhịn thì người kia không thể tiếp tục chửi mắng nữa. Từ đây cho thấy, hai người đánh lộn hoặc chửi mắng nhau, chứng tỏ hai người ngang hàng; nếu một người cao, một người thấp sẽ chẳng thể cãi nhau được. Người ở trình độ cao hơn sẽ nhường, sẽ không tranh cãi nữa. Chỗ này chúng ta phải học hỏi, hễ học được thì trong đời này sẽ có nhiều hạnh phúc. Khi chúng ta muốn cùng người khác cãi vả, tự mình phải sanh lòng hổ thẹn. Vì sao? “Tôi cũng giống như họ vậy”, không giống nhau thì làm sao cãi vả cho được!

Vì thế, đừng cho mình là đúng, đừng nghĩ rằng mình rất tài giỏi, chớ nghĩ mình là thông minh nhất, [nếu nghĩ] như vậy sẽ dẫn đến thị phi, sẽ dính vào nhiều việc phiền phức. Giống như trong xã hội hiện thời thường nói, chúng ta phải giữ lấy náu mình(!), như vậy mới là tốt! Chớ nên tranh cãi với kẻ khác. Nhất là khi học Phật, khởi sự từ đâu? “Chẳng tranh với người, chẳng cầu nơi đời”. Vô tranh vô cầu là buông xuống hết thảy, hết thảy đều không chấp trước, niệm Phật vãng sanh không còn chướng ngại. Niệm Phật không thể vãng sanh là vì chúng ta vẫn còn có tranh giành, chúng ta vẫn còn đòi hỏi, còn tranh còn cầu thì chính mình chịu thiệt thòi, thiệt thòi quá lớn! Không thể vãng sanh thì, vẫn phải tiếp tục trôi lăn trong lục đạo luân hồi, vậy thì phiền phức to lớn hay không? Thiệt thòi quá to lớn, vì thế, trước hết phải học “vô tránh” (không tranh). Một đệ tử đức Phật là tôn giả Tu Bồ Đề đối với hết thảy người, sự, vật đều chẳng tranh giành, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thường khen ngợi Ngài, Ngài đã đắc Vô Tránh Tam-muội. Thế Tôn tán thán Ngài, biểu dương Ngài là khuôn mẫu, dạy chúng ta nên học theo Ngài, dụng ý là ở chỗ này.

9. Bát Nhã đích thực là phải đích thân chứng, chứng như thế nào? Tức là buông xuống. Khi buông xuống, chúng ta sẽ biết rõ, sẽ hiểu rõ. Nếu không buông xuống, dù hết thảy chư Phật có dạy chúng ta thì vẫn như “gãi ngứa ngoài giày”, không dễ gì thấu hiểu được. Chúng ta buông xuống một phần sẽ thấu hiểu một phần; chúng ta buông xuống hai phần sẽ thấu hiểu hai phần; buông xuống càng nhiều, thấu hiểu càng nhiều hơn nữa. Vì thế, nhất định phải từ buông xuống mới thấy được hiệu quả, đấy gọi là Phật pháp chân chính. Ví như chúng ta đọc trọn khắp Tam Tạng mười hai bộ kinh, đọc đến thuộc lòng, có thể đọc làu làu từ phần cuối đến phần đầu, nhưng không thể buông xuống thì vẫn vô dụng, sự hiểu biết về Phật pháp của chúng ta chỉ là văn tự ngoài da. Thật ra, có hiểu rõ văn tự hay không? Vẫn là chẳng hiểu văn tự! Cần phải thật sự đích thân chứng đến cảnh giới, sau đó, xem văn tự trong các kinh do đức Phật đã giảng, chúng ta mới thật sự hiểu được. Đây chính là chỗ khó khăn trong Phật pháp. Chỗ khó khăn này cũng chính là chỗ dễ dàng của Phật pháp, vì Phật pháp là pháp môn Bất Nhị, khó và dễ không hai. Vì sao nói là khó? Không buông xuống sẽ khó. Học hơn mấy trăm năm, đọc thuộc Tam Tạng mười hai bộ kinh, nhưng chẳng lãnh hội, không hiểu, không phải là khó hay sao? Tại sao nói là dễ? Buông xuống sẽ dễ dàng, đã thật sự buông xuống, dẫu chưa đọc một bộ kinh nào, như Lục Tổ Huệ Năng đại sư chưa từng đọc một bộ kinh nào, nhưng kinh gì Ngài cũng đều hiểu hết, [nên nói] là dễ. Do vậy khó hay dễ là ở chỗ nào? Chỉ là chịu buông xuống hay không mà thôi.

10. Kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Ái bảo tham trọng, tâm lao thân khổ” (Tham ái sâu nặng, tâm mệt nhọc, thân khổ sở), chữ “ái” ở đây là tham ái, chúng ta tham ái vàng bạc, tiền tài, của cải thế gian, tâm tham lam rất sâu nặng, luôn tưởng rằng có thể giữ lấy, giữ chặt, thật ra, cái gì cũng không có được, đó chỉ là khởi vọng tưởng mà thôi. Người thế gian thường nói: “Sanh chẳng đem đến, chết chẳng mang theo”, vì chúng ta chưa chết nên vẫn còn muốn giữ chặt. Thật ra mỗi người chúng ta, mỗi buổi tối đều phải chết một lần. Khi ngủ say, cái thân này có bị khiêng đi, chúng ta đều chẳng biết, huống chi còn muốn giữ lấy vàng, bạc, châu báu! Thế gian không có một thứ chi là của mình, vì thế, không có một thứ chi có được, bao gồm cả thân thể chính mình đều không có được. Ngay cả thân thể còn không có được, huống chi vật ngoài thân! Do vậy chúng ta phải giác ngộ, nhất định phải mở rộng tầm nhìn, phải nhìn thấu, khi chúng ta thật sự buông xuống sẽ được đại tự tại, đó mới hạnh phúc khoái lạc thật sự. Vì thế, buông xuống là lẽ đương nhiên, phải buông xuống, vì sao? Chẳng thể có được [thứ gì]. Nếu đã là [thứ gì cũng đều] không thể được, vì sao không chịu buông xuống? Nếu có được, dù ta không buông xuống đi nữa, Phật cũng vẫn gật đầu, vẫn tán thành, nhưng dù chúng ta có nghĩ tưởng như thế nào đi nữa, tất cả đều là không, đều chẳng thể được, đều là trống rỗng! Vì thế, Phật dạy chúng ta buông xuống, tuyệt đối là đúng đắn. Vì sao Ngài dạy chúng ta buông xuống? Vì thật sự chúng ta không thể nào có được. Do vậy, người mê hoặc rất tội nghiệp, “tâm nhọc nhằn, thân khổ sở”, những thứ chúng ta không thể có lại muốn có cho được, cho nên mới khổ! Thân lẫn tâm đều khổ.

11. Buông xuống rất khó. Tại sao chúng ta không thể buông xuống? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu. Nhìn thấu là như thế nào? Chúng ta không thật sự hiểu rõ chân tướng sự thật của nhân sinh, chân tướng là gì? Kinh Kim Cang dạy: “Phàm những gì có tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Đức Phật dạy chúng ta phải thường quán như vậy. Nói đơn giản, Quán nghĩa là “nghĩ tưởng”. Chúng ta phải thường nghĩ gì? Tất cả hết thảy các pháp đều là không, đều là giả. Chúng ta hãy nghĩ về ngày hôm qua, hôm qua đã trôi qua, vĩnh viễn chẳng trở lại nữa. Nói tới hôm nay thì hôm nay cũng đã qua mất, thật sự là một giấc mộng. Đời người mấy mươi năm ngắn ngủi, chớp mắt đã trôi qua mất. Trẻ nhỏ còn ngây thơ, không biết gì, đến Tết rất vui mừng, náo nhiệt, chúng nó thường mong Tết đến, nhưng mỗi năm phải rất lâu mới đến Tết. Còn người lớn, làm việc cực nhọc, hy vọng ngày tháng trôi qua chậm một chút, nhưng lại cảm thấy mỗi năm đều trôi qua rất nhanh.

Đời người đúng là một giấc mộng, lão hòa thượng thường dạy các bạn đồng tu quán tưởng, phải quán như thế nào? Trước lúc đi ngủ và lúc thức dậy, chúng ta hãy suy nghĩ cặn kẽ lúc ngủ mê có khác gì đã chết rồi hay không? Lúc chúng ta ngủ mê, nếu người ta khiêng thân thể chúng ta đi, chúng ta cũng không hay biết gì hết. Do vậy trên thế gian này có một vật gì là vật của chúng ta hay không? Đúng là ngay cả thân thể này cũng không phải của mình, còn thứ gì là của mình nữa? Có vật gì chúng ta có thể giữ chắc được, có thứ gì chúng ta có thể cất giữ được? Tất cả đều là giả tạm, đều là nhọc lòng lo lắng uổng công! Chúng ta thường gọi đó là “dụng tâm sai lầm”. Khi tỉnh giấc nghĩ lại giấc mộng đêm qua, nghĩ về những cảnh giới trong mộng, sau đó lại nghĩ tới cảnh giới hiện tại có khác gì không? Nếu thường nghĩ như vậy, mỗi ngày đều nghĩ về chuyện này, đối với vạn sự vạn vật trong thế gian này tự nhiên chúng ta sẽ hiểu rõ, sẽ cảm thấy lợt lạt, sẽ chẳng chấp trước nặng nề nữa, sẽ chẳng tranh chấp nữa. Từ đó, sẽ có thể tùy duyên sống qua ngày, thật thà niệm Phật.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.