Bài kệ truy tán phong tặng Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi của Vua Lý Thái Tông đã nói lên tất cả công hạnh của Ngài
• ĐÃ THÂM HIỂU CỐT TUỶ CỦA THIỀN TÔNG.
• ĐÃ ĐẠT BÁT NHÃ TRÍ.
Kính ngưỡng Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi…
Ngài đã mang phương pháp Thiền độc đáo vào nước Việt
Dựa trên lời dạy Đức Phật qua hai bộ kinh (1)
Lời phó chúc cho đệ tử nối pháp đã chứng minh (2)
Và ảnh hưởng rộng lớn lan truyền vào đời Lý
thơ truy tán phong tăng đầy nghĩa ý (3)
Như công hạnh Ngài trong tích sử còn ghi (4)
Tượng Ngài nơi Chánh điện Chùa Pháp Vân xưa trụ trì (5)
Trên 200 tăng sinh ban đầu và 19 truyền thừa nối tiếp !
Những tài liệu tham khảo giúp thêm chi tiết :
Núi Tượng Đầu có tịnh xá thế nào (6)
Tư tưởng Tâm Ấn từ Mật Giáo ra sao (7)
Từ đấy dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi được khai sáng (8)
Nam Mô Tỳ Ni Đa Lưu Chi Thiền Sư tác đại chứng minh
Huệ Hương – Melbourne 15/6/2021
_______________________________
(1) Tượng Đầu Tinh Xá Kinh và Đại thừa Phương Quảng Tổng Trì Kinh.
Kinh Tượng Đầu Tinh Xá nói về bản chất của giác ngộ, tức là bồ đề. Cũng giống như các Kinh thuộc hệ Bát Nhã, Kinh Tượng Đầu Tinh Xá có tính phá chấp mạnh mẽ và đặc biệt chú trọng thiền quán.
“Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: Bồ đề siêu việt tam giới, siêu việt ngôn ngữ, siêu việt văn tự, không cần địa điểm nương tựa. Lại nữa Văn Thù, an trú vào nơi không an trú tức là an trú ở bồ đề; an trú ở nơi không chấp trước tức là an trú ở bồ đề; an trú ở pháp không tức là an trú nơi bồ đề; an trú nơi chân lý tất-cả-các-pháp-không-có-thể-tướng tức là an trú nơi bồ đề; an trú nơi không-tăng-không-giảm tức là an trú nơi bồ đề…
Sau khi xác định bản chất của việc an trụ Bồ đề như vậy, hành giả phải “dấy lên lòng đại từ đối với tất cả chúng sinh” và thực hành lục độ Ba la mật. Ở đây, năm Ba la mật trước gồm Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định thuộc về hữu vi, hữu lậu, hữu lượng, và trụ hạnh. Chỉ có Ba la mậtthứ 6 là Bát nhã Ba la mật là thuộc về vô vi, vô lậu, vô lượng và vô trụ hạnh. Các hạnh này hay khiến cho Bồ tát Ma ha tát mau chóng chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Tuy nhiên, khi quá nhấn mạnh về Bát nhã Ba la mật, người ta dễ có cảm tưởng rằng, chỉ cần tu Bát nhã Ba la mật là đủ để chứng ngộ, an trụ Bồ đề.
Vì vậy mà Tổ dịch tiếp kinh Đại thừa Phương Quảng Tổng trì để cảnh giác việc này và khẳng định vai trò quan trọng của việc thực hành đủ cả sáu Ba la mật: “Như ông đã nói, ngày xưa ta từng trong sáu mươi kiếp thực hành bố thí Ba la mật, trì giới Ba la mật, nhẫn nhục Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền định Ba la mật và bát nhã Ba la mật, mỗi thứ 60 kiếp. Kẻ ngu si kia dựng lời nói bậy là chỉ tu một Bát nhã Ba la mật thì thành được bồ đề. Không có chuyện đó đâu. Kẻ đó mang lấy quan điểm hư vô nên có lời thuyết pháp bất tịnh như vậy…”
Như vậy, “tổng trì” ở đây mang ý nghĩa là việc nắm giữ, thực hành tổng thể các phương pháp, phương tiện tu hành, hơn là ý nghĩa là một câu mật chú, chân ngôn bí mật (đà la ni).
Kinh Tượng Đầu Tinh Xá cũng dạy về vai trò của việc thực hành thiền quán: “Lại nữa, kẻ trí giả phải lấy thiền làm thể; thiền tri phải bình đẳng, không có phân biệt, bởi vì đó là phương tiện vậy. Phải quán ấm (ngũ ấm), nhập (lục nhập), giới (thập bát giới), mười hai nhân duyên, sự lưu chuyển của sinh tử về các hình tướng thiện ác đều như huyễn hóa, không phải hữu cũng không phải vô.”
Bản Kinh này cũng dạy về mười phương pháp thiền quán nội ngoại để phá trừ các chấp trước, như sau:
1) Quán nội giới của thân là không,
2) Quán ngoại giới của thân là không,
3) Quán các pháp trong và ngoài đều không,
4) Không bị chấp trước vào nhất thiết trí,
5) Không bị chấp trước vào những phương tiện tu hành,
6) Không bị chấp trước vào các địa vị tu chứng của các bậc hiền thánh,
7) Không chấp trước vào sự thanh tịnh đạt được do sự hành đạo lâu ngày,
8) An trú ở Bát Nhã Ba La Mật,
9) Không bị chấp trước vào công việc giảng luận giáo hóa,
10) Quán các chúng sinh phát khởi từ bi và lòng lân mẫn.[12]
Như vậy, Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã căn cứ vào Kinh điển mà truyền dạy một phương pháp tu tập hoàn toàn mới,
(2) Khi phó chúc cho Đệ Tử Pháp Hiền Ngài đã khai thị
– Tâm ấn của chư Phật, không có lừa dối, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn; vốn không có chỗ sanh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa lìa, mà chẳng phải chẳng xa lìa. Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi. ….. Tổ Tăng Xán khi Ấn khả chứng minh tâm này cho ta bảo ta mau về phương Nam giáo hóa. Đã trải qua nhiều nơi nay đến đây gặp ngươi quả là phù hợp với lời huyền ký. Vậy ngươi khéo giữ gìn, giờ đi của ta đã đến.”
(Lời khai thị của Tổ Sư Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi )
(3) Về sau, vua Lý Thái Tông (1028-1054) có làm bài kệ truy tán phong tặng Sư:
Mở lối nước Nam đến
Nghe Ngài giỏi tập thiền.
Hiện bày các Phật tánh
Xa hiệp một nguồn tâm.
Trăng Lăng-già sáng rỡ
Hoa Bát-nhã ngạt ngào.
Bao giờ được gặp mặt
Cùng nhau bàn đạo huyền.
(Sáng tự Nam lai quốc
Văn quân cửu tập thiền
Ứng khai chư Phật tánh
Viễn hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng-già nguyệt
Phân phân Bát-nhã liên
Hà thời hạnh tương kiến
Tương dữ thoại trùng huyền.)
(4) Sư là người Nam Thiên Trúc (Nam Ấn Độ) dòng Bà-la-môn tên Vinitaruci. Thuở nhỏ đã có chí khác thường, đi khắp miền Tây Trúc (Tây Ấn Độ) để tham khảo Thiền tông. Nhưng vì cơ duyên chưa gặp, Sư lại sang Đông Nam.
Sư sang Trung Quốc nhằm đời Trần Tuyên Đế niên hiệu Thái Kiến năm thứ sáu (574) vào đến Trường An. Gặp thời Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp, Sư lại phải sang qua đất Nghiệp (Hồ Nam). Lúc ấy, Tổ Tăng Xán đang mang y bát ở ẩn trong núi Tư Không, bỗng nhiên Sư tìm gặp được Tổ. Thấy cử chỉ phi phàm của Tổ, Sư phát tâm kính mộ, đến trước vòng tay ba lần, Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói. Sư đứng suy nghĩ giây lát bỗng nhiên tâm có sở đắc. Sư liền sụp xuống lạy ba lạy, Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái. Sư lùi lại ba bước thưa:
– Đệ tử lâu nay không được an, Hòa thượng vì lòng đại từ bi, xin cho con theo hầu hạ Ngài.
Tổ bảo:
– Ngươi nên mau qua phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu.
Sau khi được tâm ấn nơi Tổ, Sư từ biệt sang Quảng Châu trụ trì tại chùa Chế Chỉ. Thời gian sáu năm ở đây, Sư dịch xong bộ kinh “Tượng Đầu Tinh Xá” chữ Phạn ra chữ Hán(1).
Đến niên hiệu Đại Tường năm thứ hai nhà Chu (580), Sư sang Việt Nam trụ trì tại chùa Pháp Vân(2). Nơi đây, Sư dịch xong bộ kinh Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì(3).
Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền bảo:
– Tâm ấn của chư Phật, không có lừa dối, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn; vốn không có chỗ sanh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa lìa, mà chẳng phải chẳng xa lìa. Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi. Bởi thế, chư Phật trong ba đời cũng như thế, nhiều đời Tổ sư cũng do như thế mà được, ta cũng do như thế được, ngươi cũng do như thế được, cho đến hữu tình vô tình cũng do như thế được. Tổ Tăng Xán khi ấn chứng tâm này cho ta, bảo ta mau về phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu. Đã trải qua nhiều nơi, nay đến đây gặp được ngươi quả là phù hợp với lời huyền ký. Vậy ngươi khéo giữ gìn, giờ đi của ta đã đến.
Nói xong, Sư chắp tay thị tịch. Pháp Hiền làm lễ hỏa táng, lượm xá-lợi năm sắc, xây tháp cúng dường. Năm ấy nhằm niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bốn nhà Tùy (594).
(5) Chùa Pháp Vân cũng gọi là chùa Dâu tên chữ là chùa Diên Ứng ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, hiện nay cách Hà Nội khoảng 25km về hướng Đông. Chùa này thời Lý gọi là chùa Cổ Châu (làng Cổ Châu, huyện Siêu Loại); đời Trần gọi là chùa Thiền Định hay chùa Siêu Loại; đời Hậu Lê gọi là chùa Diên Ứng.
Nơi đây có nhiều Thiền sư của dòng thiền này vẫn giữ nếp sống tu hành khổ hạnh, giữ 12 hạnh đầu đà, vốn là một truyền thống tu hành phổ biến của miền Nam Thiên Trúc. , truyền được 19 thế hệ với Sư là Sơ tổ và chấm dứt với Y Sơn (mất năm 1213).
(6) tinh xá Tượng Đầu, tại thành Già-da
Bấy giờ, Như Lai thành Phật chưa lâu, sau khi độ 5 anh em Ngài Kiều Trần Như, Ngài đã trở về Bồ Đề Đạo Tràng sau đó thu nạp 3 Thầy thờ thần lửa ( Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp,Già Gia Ca Diếp, . Na Đề Ca Diếp Và hơn 900 đệ tử ) nên Ngài đã dẫn số đệ tử lên núi để giảng dạy và ta biết được điều này trong lời mở đầu của bộ kinh Tượng đầu tinh xá như sau : “Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời, đức Bà-già-bà, ngụ tại tinh xá Tượng Đầu, thành Già-da
Bấy giờ, Như Lai thành Phật chưa lâu, Ngài cùng với một nghìn đại tì-kheo và vô số chúng đại bồ-tát nhóm họp. Các đại tì-kheo này là những người xưa kia đã từng theo tiên nhân Loa Kế[3] tu tập, các vị ấy đều là bậc A-la-hán, việc làm đã xong, buông bỏ gánh nặng, thoát khỏi sinh tử, sạch các phiền não, đạt được không tuệ bình đẳng, trí tâm chính định, hiểu biết mọi việc, đã đến bờ giác”.
Lúc ấy Thế Tôn ngồi yên lặng tư duy, nhập các môn tam-muội, quán sát khắp pháp giới, tự biết đã thành đạo, đầy đủ Nhất thiết trí, các việc làm đã xong, buông bỏ mọi gánh nặng, vượt qua dòng sinh tử, không còn tham lam bỏn xẻn, nhổ gai ba độc, không còn khát ái[4], gom thuyền đại pháp, gióng trống đại pháp, thổi kèn đại pháp, dựng cờ đại pháp, đã đoạn sinh tử. Ngài diễn thuyết chính pháp:
– Đóng cửa các đường ác, mở cửa các đường thiện, lìa hẳn những cõi xấu, dạo nơi cõi tịnh. Ta quán sát pháp này, ai là người tu tập bồ-đề, ai là người chứng bồ-đề và ai là người sắp chứng bồ-đề? Từ đời quá khứ, hiện tại cho đến vị lai, ai là người chứng đắc? Là thân chứng đắc hay tâm chứng đắc?
(7) Cùng với tư tưởng Bát Nhã, chúng ta có tư tưởng của Mật Giáo qua kinh Tổng Trì. Tổng trì có nghĩa là thu góp lại, giữ gìn lại đừng cho rơi rụng đi. Danh từ Tâm Ấn (the seal of the heart) mà chúng ta nghe nói đến trong thiền tông, là một danh từ có nguồn gốc ở Mật Giáo, trong kinh Đại Nhật, và thầy Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi là người đầu tiên đã dùng danh từ Tâm Ấn.
Tại sao chúng ta biết được thầy Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi đã dùng danh từ Tâm Ấn? Tại vì trong sách Thiền Uyển Tập Anh có nói đến điều này.
Trước khi thầy Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi tịch, thầy có dặn đệ tử Pháp Hiền mấy câu: Tâm Ấn của chư Phật không lừa dối ta đâu. Tâm Ấn ấy tròn đầy như thái hư, không thiếu, không dư, không đi, không tới, không được, không mất, không nhất nguyên, không đa nguyên, không thường, không đoạn, không sinh, không diệt.
Cuối cùng thì thầy nói: Khi Tăng Xán ấn cho ta cái tâm này (ấn có nghĩa là in xuống) thì có bảo ta nên về phương Nam gấp để mà giao tiếp.
(8) đa số các học giả Việt Nam đều có chung một số nhận định về Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi như sau:
1) Tổ là người Thiên Trúc, đã đi khắp Ấn Độ để học hỏi Phật pháp.
2) Tổ là đệ tử được truyền tâm pháp của Tam tổ Tăng Xán
3) Tổ chịu ảnh hưởng lớn từ tư tưởng Thiền học của Tăng Xán
4) Tổ đã nghe lời của Tăng Xán sang Giao Châu truyền bá Thiền Tông Trung Hoa.