Lục Vân Tiên

Vân Tiên – Nguyệt Nga

Đoạn này tới thứ ra đời, (280)
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kẽ từ nhuốm bệnh đường xa,
Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm.
Tuổi cha rày đã năm lăm,
Chạnh lòng nhớ tới đầm đầm lụy sa.
Vân Tiên tính trở lại nhà,
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.
Tiên rằng : “Ta lại hồi hương,
Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay”.
Minh rằng : “Tôi vốn chẳng may,
Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
Dám đâu bày mặt ra thi,
Đã đành hai chữ quy y chùa này”. (281)
Tiên rằng : “Phước gặp khoa này,
Sao sao cũng tính sum vầy cùng nhau.
Mấy năm hẩm hút tương rau, (282)
Khó nghèo nỡ phụ sang giàu đâu quên.
Lúc hư còn có lúc nên,
Khuyên người chử dạ cho bền thảo ngay”.
Hớn Minh trở lại am mây,
Vân Tiên về một tháng chầy tới nơi.
Lục ông nước mắt tuôn rơi,
Ai dè con sống trên đời thấy cha !
Xóm giềng cô bác gần xa,
Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm.
Ông rằng : “Kể đã mấy năm,
Con mang bệnh tật ăn nằm nơi nao ?”
Thưa rằng : “Hoạn nạn xiết bao,
Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an “.
Đặt bày lễ vật nghiêm trang,
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh : (283)
“Suối vàng hồn mẹ có linh,
Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay.
Tưởng bền nguồn nước cội cây, (284)
Công cao ngàn trượng ngãi dày chín trăng. (285)
Suy trang nằm giá, khóc măng, (286)
Hai mươi bốn thảo chẳng bằng người xưa”. (287)
Vân Tiên nước mắt như mưa,
Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà.
Ông rằng : “Có nàng Nguyệt Nga,
Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê.
Nhờ nàng nên mới ra bề, (288)
Chẳng thì khó đói bỏ quê đi rồi”.
Vân Tiên nghe nói hỡi ôi,
Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu.
Hỏi rằng : “Nàng ấy ở đâu,
Đặng con đến đó đáp câu ân tình”.
Lục ông thuật việc triều đình,
Đầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên:
“Kiều công rày ở Tây Xuyên,
Cũng vì mắc nịnh biếm quyền đuổi ra”. (289)
Tiên rằng : “Cám nghĩa Nguyệt Nga
Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng.
Tây Xuyên ngàn dặm thẳng xông,
Đến nơi ra mắt, Kiều công khóc liền:
“Nguyệt Nga rày ở nước Phiên,
Biết sao cho đặng đoàn viên cùng chàng ?
Mấy thu Hồ Việt đôi phang, (290)
Cũng vì máy tạo én nhàn rẽ nhau.
Thấy chàng dạ lại thêm đau,
Đất trời bao nỡ chia bâu cho đành. (291)
Hẹp hòi đặng chút nữ sanh.
Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn”. (292)
Nói rồi lụy nhỏ đòi cơn:
“Cũng vì một sự oán hờn nên gây.
Thôi con ở lại bên này,
Hôm mai thấy mặt cho khuây lòng già”.
Vân Tiên từ ấy lân la,
Ôn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kì,
Năm sau lệnh mở khoa thi,
Vân Tiên vào tạ xin đi tựu trường.
Trở về thưa với xuân đường,
Kinh sư ngàn dặm một đường thẳng ra. (293)
Vân Tiên dự trúng khôi khoa, (294)
Đương trong nhâm tí thiệt là năm nay.
Nhớ lời thầy nói thật hay,
Bắc phương gặp chuột hẳn rày nên danh.
Vân Tiên vào tạ triều đình,
Lệnh ban y mão hiển vinh về nhà.
Xảy nghe tin giặc Ô Qua,
Phủ vây quan ải, quân ba bốn ngàn.
Sở vương phán trước ngai vàng:
Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong. (295)
Trạng nguyên tâu trước bệ rồng:
“Xin dâng một tướng anh hùng đề binh. (296)
Có người họ Hớn tên Minh,
Sức đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi.
Ngày xưa mắc án trốn đi,
Phải về nương náu từ bi ẩn mình”.
Sở vương phán trước triều đình,
Chỉ sai tha tội Hớn Minh đòi về.
Sắc phong phó tướng bình di, (297)
Tiên Minh tương hội xiết gì mừng vui. (298)
Nhất thanh phấn phát oai lôi, (299)
Tiên phong hậu tập trống hồi tấn binh. (300)
Quan sơn ngàn dặm đăng trình,
Lãnh cờ bình tặc phá thành Ô Qua. (301)
Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha, ngay chúa, mới là tài danh.
Phút đầu binh đáo quan thành, (302)
Ô Qua xem thấy, xuất hành cự đang. (303)
Tướng Phiên hai gã đường đường,
Một chàng Hoả Hổ một chàng Thần Long.
Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung,
Mắt hùm râu đỏ tướng hung lạ lùng.
Hớn Minh ra sức tiên phong,
Đánh cùng Hoả Hổ Thần Long một hồi.
Hớn Minh chùy giáng dường lôi, (304)
Hai chàng đều bị một hồi mạng vong.
Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung,
Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh.
Hớn Minh sức chẳng dám kình,
Thấy chàng hoá phép thoát mình trở lui.
Vân Tiên đầu đội kim khôi,
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô. (305)
Một mình lướt trận xông vô,
Thấy người Cốt Đột biển hô yêu tà.
Vội vàng trở ngựa lui ra,
Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ.
Ba quân gươm giáo đều dơ,
Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan.
Phép tà Cốt Đột hết phương,
Phừng phừng nổi giận đánh chàng Vân Tiên.
Trung, tiền, tả, hữu, lưỡng biên,
Trạng nguyên – Cốt Đột đánh liên tối ngày.
Sa cơ Cốt Đột chạy ngay,
Vân Tiên giục ngựa kíp rày đuổi theo.
Đuổi qua mới đặng bảy đèo,
Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao. (306)
Chạy ngang qua núi Ô Sào,
Phút đâu con ngựa sao hào thương ôi.
Vân Tiên chém Cốt Đột rồi,
Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân.
Ôi thôi bốn phía đều rừng,
Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa.
Một mình lạc nẻo vào ra,
Lần theo đường núi phút đà tam canh. (307)
Một mình trong chốn non xanh,
Không ai mà hỏi lộ trình trở ra.
Đoạn này tới thứ Nguyệt Nga,
ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
Đêm khuya trong ngọn đèn ngồi,
Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi:
“Quân âm thuở trước nói chi,
Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.
Đã đành đá nát vàng phai,
Đã đành xuống chốn dạ đài gặp nhau.
Không trông mồng bảy đêm thu,
Không trông bầy quạ đội cầu đưa sao. (308)
Phải chi hỏi đặng Nam Tào,
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau ?”
Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu,
Xảy nghe lạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: “Ai ở trong nhà,
Đường về quan ải chỉ ra cho cùng”.
Nguyệt Nga ngồi sợ hãi hùng,
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
Lão bà lật đật hỏi chào :
“Ở đâu mà tới rừng cao một mình ?”
Vân Tiên mới nói sự tình :
“Tôi là quốc trạng trào đình sai ra.
Đem binh dẹp giặc Ô Qua,
Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây”.
Lão bà nghe nói sợ thay :
“Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già “.
Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệt Nga,
Lại xem bức tượng lòng đà sinh nghi.
Hỏi rằng: “Bức ấy tượng chi,
Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình.
Đầu đuôi chưa rõ sự tình,
Lão bà khá nói tánh danh cho tường “.
Lão bà chẳng dám lời gian :
“Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây”.
Tiên rằng : “Nàng xách lại đây,
Nói trong tên họ tượng này ta nghe”.
Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè,
Mặt thời giống mặt, còn e lạ người.
Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.
Rằng : “Sao nàng chẳng nói đi,
Hay là ta hỏi động chi chăng là ?”
Nguyệt Nga khép nép thưa qua :
“Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
Chàng đàng về chốn cửu tuyền,
Thiếp lăm trọn đạo, lánh miền gió trăng”.
Vân Tiên nghe nói hỏi phăn :
“Chồng là tên ấy vợ rằng tên chi ?”
Nàng bèn tỏ thiệt một khi,
Vân Tiên vội vã xuống quì vòng tay.
Thưa rằng : “May gặp nhau đây,
Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
Để lời thệ hải minh sơn, (309)
Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
Vân Tiên vốn thiệt là tôi,
Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ”.
Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ, (310)
Nửa tin rằng bạn, nửa ngờ rằng ai.
Thưa rằng : “Đã thiệt tên ngài,
Khúc nôi xin cứ đầu bài phân qua”. (311)
Vân Tiên dẫn tích xưa ra,
Nguyệt Nga khi ấy khóc oà như mưa.

This entry was posted in Sách Truyện, Thơ Văn. Bookmark the permalink.