Thiền Sư Pháp Thuận

Nối pháp truyền  thừa thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi… Thiền Sư Pháp Thuận vị chân tu uyên bác trình độ rất cao về sấm ngữ và nghệ thuật thi ca đã sử dụng năng lực của mình một cách điệu nghệ để giúp vua Lê Đại Hành thực hiện nhiều sứ mệnh phức tạp trong việc trị quốc lẫn cộng tác ngoại giao! 

(Thiền Sư Pháp Thuận (914-990), Thế hệ thứ 10 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi tại VN)

Đại Việt Sử Ký toàn thư cũng như tài liệu Phật Giáo Cổ nhất (1)

Vinh danh Ngài…  nhà bác học, bậc chân tu
Vua Lê Đại Hành kính trọng ĐỖ PHÁP SƯ (2)
Tấm gương sáng ngày sau cho Tăng, Ni và hậu học.

Khẩu khí tinh anh, lời thơ châu ngọc…
Cải trang lái đò, ngẫu hứng họa đôi câu (3)
Lý Giác sững sờ… cảm nhận thông tuệ đạt sâu
Liền dâng sớ ” Ngoài trời lại có trời soi nữa ” (4)

Cái biết của Ngài quá ưu thời mẫn thế… Vua Lê nương tựa!
Bài kệ Vận Nước chỉ phương sách ổn định nhân tâm (5)
Đa tạ những bài viết nghiên cứu thậm thâm
Bao kinh nghiệm thu thập… giải bày tận tường thật đúng

Nào là ” vô vi  trong điện các ” liên quan Thành Duy Thức tụng (6)
Dây mây… hình ảnh bó cây bền chắc trước hoạ ngoại xâm. (7)
Tam Giáo đồng nguyên thích hợp năng lực  dân Nam (8)
Khẳng định cách trị quốc thuận tự nhiên… bình an xã tắc !!!!

Kính ngưỡng bậc anh tài :
Thị tịch an nhiên bao cống hiến không hề dính mắc (9)
Nam Mô Đỗ  Pháp Thuận Pháp Sư tác đại chứng minh.

Huệ Hương – Melbourne 3/7/2021

____________________________________________________

(1) Theo sách Thiền uyển tập anh (Tập hợp tinh hoa vườn Thiền), tài liệu được coi là cổ nhất của Phật giáo Việt Nam còn lại tới hôm nay,  sau khi đắc pháp, Thiền sư Pháp Thuận đã đạt được trình độ rất cao về độn số và nghệ thuật phù sấm. Và ông đã sử dụng rất điệu nghệ những năng lực tâm linh này của mình để giúp vua Lê Đại Hành vượt qua mọi trắc trở đương thời để, như Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) nhận định, “trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình”.

Cũng Thiền uyển tập anh đã đánh giá Thiền sư Pháp Thuận  là một nhà bác học, giỏi về nghệ thuật và thi ca, có tài phụ tá nhà vua trong việc chính trị và thông hiểu tình hình thực tại của đất nước (bác học công thi, phụ vương tá chi tài, minh đương thế chi vụ).

(2) Sư họ Đỗ, không rõ quê quán ở đâu, xuất gia từ thuở bé, thọ giới với Thiền sư Long Thọ Phù Trì. Sau khi đắc pháp, Sư nói lời nào cũng phù hợp sấm ngữ.

Nhà Tiền Lê mới dựng nghiệp, thường mời Sư vào triều luận bàn việc chánh trị và ngoại giao. Khi quốc thái dân an, Sư không nhận sự phong thưởng. Vì thế, vua Lê Đại Hành rất kính trọng, không dám gọi tên, chỉ gọi là Đỗ pháp sư.

Được biết :

Pháp sư là người khéo học Phật pháp và khéo thuyết pháp.

Trong sách Luật Hữu Bộ – Tạp sự quyển 13, Tỳ kheo chia làm 5 loại kinh sư, luật sư, luận sư, pháp sư và thiền sư. Giới tụng kinh là kinh sư, giỏi giữ luật là luật sư. Giỏi về nghĩa lý của Luận thì gọi là Luận sư. Giỏi thuyết pháp là Pháp sư. Giỏi tu thiền là Thiền sư. Thế nhưng trong Phật giáo Trung Quốc, người ta ít nói tới Kinh sư và Luật sư; còn Luận sư, Pháp sư và Thiền sư thì được nói tới rất nhiều. ( theo HT Thánh Nghiêm )

(3) Đã giúp vua nhiều sứ mệnh phức tạp cả trong việc trị quốc lẫn công tác ngoại giao. Và tình huống được coi là gây ấn tượng mạnh nhất trong đối ngoại của Thiền sư Pháp Thuận đã là lần cải trang làm “giang lệnh” (người chèo đò ) để đón tiếp sứ giả nhà Tống là Quốc Tử giám bác sĩ Lý Giác năm 987. Đấy là lần thứ hai Lý Giác sang nước ta.

Lần đầu, năm 986, ông sang là để mang chế sách phong cho vua Lê Đại Hành làm An Nam đô hộ Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ kinh triệu quận hầu. Biết Lý Giác rất thích chuyện văn thơ nên khi hay tin vua Tống lại cử ông đi sứ sang nước ta, vua Lê Đại Hành đã sai Thiền sư Pháp Thuận, lúc này đã 72 tuổi, ra đón trong vai người coi sông. Khi đi trên thuyền, thấy hai con ngỗng tung tăng bơi lội trên sông, tức cảnh sinh tình, Lý Giác mới nảy ra hai câu thơ:

Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha…
(Song song ngỗng một đôi,
Ngửa mặt ngó ven trời).
Thiền sư Pháp Thuận nghe đọc vậy liền tiếp vần ngâm nga:
Bạch mao phô lục thủy,
Hồng trạo bãi thanh ba…
(Lông trắng phơi dòng biếc,
Sóng xanh chân hồng bơi).

Thế là đã ngẫu hứng xuất hiện một bài tứ tuyệt rất chỉnh và hay, lại gợi lên những liên tưởng tới bài thơ Vịnh con ngỗng của Lạc Tiên Vương (640-684), một danh sĩ từng nổi loạn chống lại Võ Tắc Thiên nhưng rồi đã bị thất bại và chết đầy đau đớn:

“Nga nga nga
Khúc hạng hướng thiên ca
Bạch mao phù lục thủy
Hồng chưởng bát thanh ba”
(Cạp cạp cạp,
Dướn cổ gọi thẳng trời,
Lông trắng ngời nước biếc,
Chân hồng xanh sóng bơi).

(4) Lý Giác rất lấy làm phục vì chỉ một “giang lệnh” ở xứ Nam mà cũng thông tuệ như thế thì hẳn đất nước này không bao giờ là bé nhỏ cả. Và khi về sứ quán, ông đã đã làm hẳn một bài thơ khá dài, trong đó có ý ca ngợi nước Việt Thiên ngoại hữu thiên ứng viễn chiếu (Ngoài trời lại có trời soi nữa). Theo cách lý giải của Thiền sư Ngô Khuông Việt (933-1011), Lý Giác viết như thế là có ý ca ngợi vua Lê Đại Hành cũng như “trời”, không khác gì vua Tống… Trong “những dòng ghi chép có vần điệu” tốt đẹp đó của viên sứ giả triều Tống hẳn đã có tác động từ những cảm nhận của ông về “giang lệnh giả trang” Pháp Thuận…

(5) Ngài trụ trì Chùa Cổ Sơn, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước.

Đây là bài thơ trả lời cho Vua Lê Đại Hành khi vua hỏi về vận mạng của đất nước:

“Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.

“Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi ở điện các
Chốn chốn dứt đao binh”.

(6) Cũng cần biết thêm có 6 pháp Vô vi trong Thành duy thức

1.- HƯ KHÔNG VÔ VI:

Hư Không Vô Vi được gọi là một pháp không phải chân tâm, không phải pháp tánh và tự nó vốn thanh tịnh thường trụ bất diệt để làm nền tảng dung chứa cho các pháp hữu vi sanh khởi và biến hóa.

2.- TRẠCH DIỆT VÔ VI:

Trạch Diệt là tên khác của Niết Bàn, nghĩa là dùng trí tuệ vô lậu chọn lựa và diệt trừ hết tất cả sự trói buộc của kiến hoặc và của tư hoặc, thể hiện được cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh hiển lộ. . Do đó nhà Duy Thức cho tướng trạng cảnh giới Niết Bàn Trạch Diệt là một pháp trong nguyên lý trật tự của tánh không.

3.- PHI TRẠCH DIỆT VÔ VI:

Phi Trạch Diệt là không cần phải chọn lựa và diệt trừ. Phi Trạch Diệt Vô Vi nghĩa là tự tánh của cảnh giới Niết Bàn xưa nay vốn đã thanh tịnh không sanh diệt không tăng giảm và hiện hữu trong nguyên lý trật tự của tánh không. Ý nghĩa của Phi Trạch Diệt Vô Vi gồm có hai:

a]- Tự tánh của cảnh giới Niết Bàn xưa nay vẫn hiện hữu, vẫn thanh tịnh không cần phải dùng trí tuệ vô lậu để chọn lựa và cũng không cần phải diệt trừ các phiền não nhiễm ô mới thành quả, nghĩa là tự tánh của cảnh giới Niết Bàn không có chút mảy may phiền não nhiễm ô nào trong đó cả cho nên không cần phải chọn lựa và diệt trừ.

b]- Các hàng Thinh Văn sau khi chứng đắc, không còn các hoặc của hữu vi sanh khởi thì tự nhiên ngộ nhập được cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh trong nguyên lý trật tự của tánh không mà không cần phải tuyển chọn.

Cảnh giới Niết Bàn chân thật bất hư thuộc tự tánh của Phi Trạch Diệt Vô Vi là chỗ an trụ của bậc Thinh Văn sau khi tu chứng. Cảnh giới Niết Bàn này nếu như so với cảnh giới Niết Bàn của Trạch Diệt Vô Vi thì có chỗ khác biệt. Cảnh giới Niết Bàn Trạch Diệt Vô Vi mặc dù thường hằng bất diệt nhưng chỉ là đối tượng của các bậc Thinh Văn sau khi chứng đắc. Riêng cảnh giới tự tánh Niết Bàn của Phi Trạch Diệt Vô Vi mới đích thực là bản thể chân như của các bậc Thinh Văn an trụ sau khi thể nhập. Cảnh giới tự tánh Niết Bàn thuộc bản thể chân như nói trên, theo nhà Duy Thức là một pháp thuộc Phi Trạch Diệt Vô Vi

4.- BẤT ĐỘNG DIỆT VÔ VI:

Bất Động là không còn bị khổ và lạc làm chao động nơi tâm. Bất Động Diệt nghĩa là hành giả đã diệt hết tam tai (tai họa đao binh, tai họa hỏa hoạn, tai họa nước hại) và không còn bị mừng, giận, thương, ghét v.v… của khổ lạc chi phối. Bất Động Diệt Vô Vi là cảnh giới tịnh lự của Tứ Thiền hiện hữu trong nguyên lý trật tự của tánh không. Đây là cảnh giới thực tại của các bậc tu thiền thuộc hạng thứ tư chứng đắc và cảnh giới này theo nhà Duy Thức là một pháp thuộc Bất Động Diệt Vô Vi …

5.- THỌ TƯỞNG DIỆT VÔ VI:

Thọ Tưởng Diệt là diệt hết sự sinh hoạt của sáu Thức, của Tâm Sở Tưởng và Tâm Sở Thọ. Thọ Tưởng Diệt Vô Vi nghĩa là cảnh giới của Thiền Định Diệt Tận hiện hữu trong nguyên lý trật tự của tánh không và cảnh giới này là chỗ an trú của các bậc thiền định Diệt Tận chứng đắc sau khi dứt hẳn sự ràng buộc của Tâm Sở Thọ, của Tâm Sở Tưởng và của sáu Thức. Cảnh giới của Thiền Định Diệt Tận theo nhà Duy Thức là một pháp hiện hữu trong nguyên lý trật tự của tánh không nên gọi là Thọ Tưởng Diệt Vô Vi.

6.- CHƠN NHƯ VÔ VI:

Chân là chân thật không hư vọng, nghĩa là không thuộc loại biến kế sở chấp tánh. Như là thường tại bất diệt. không bị biến động, không bị chuyển hoá, nghĩa là không phải thuộc loại y tha khởi tánh. Chân Như Vô Vi nghĩa là chỉ cho thế giới pháp tánh bao gồm vô số cảnh giới y báo của chư Phật an trụ và thế giới này thì thuộc về loại viên thành thật tánh trong nguyên lý trật tự của tánh không. Những cảnh giới trong thế giới Chân Như Vô Vi đều thì thường tại như thế, phổ biến như thế, thanh tịnh như thế và các pháp duyên sánh biến hoá đều nương nơi thế giới pháp tánh này làm bản thể để hiện hữu, vì vậy  thế giới pháp tánh được gọi là chân như vô vi.

(7) Trong cách hiểu của Thiền sư Pháp Thuận, vận nước có thể thay đổi và chắc chắn sẽ thay đổi tùy thuộc vào cách ta ứng xử với nội lực. Nếu ta biết cách huy động nội lực một cách tối đa bằng cách “kết đoàn lại chúng ta là sức mạnh” thì “ba cây chụm lại nên hòn núi cao” và vận nước sẽ thịnh. Nhược bằng tự chia rẽ, tự mâu thuẫn với nhau thì vận nước sẽ suy.

Thiền sư Pháp Thuận đã sử dụng cách nói tượng hình một cách nguyên sơ khi khẳng định, vận nước cũng giống như việc một búi các sợi cây mây quấn quýt lấy nhau. Sợi cây mây nào cũng dẻo cũng dai và có rất nhiều cách để quấn các sợi dây mây ấy lại với nhau. Nếu chỉ đơn lẻ thì từng sợi một rất dễ bị bẻ gãy nếu gặp phải tay cao thủ.

Nếu không biết cách quấn lại với nhau thì các sợi dây mây ấy cũng dễ trở nên lộn xộn, ông chẳng bà chuộc, không mấy đắc dụng. Nhưng nếu biết cách quấn các sợi dây mây ấy thật nhuần nhuyễn thì đó sẽ là sức mạnh, sẽ làm tăng độ bền dai mà vẫn dẻo mềm của “quốc tộ”. Muốn là một minh quân, nhà vua phải biết cách đoàn kết lại những lực lượng, những mơ ước, những nhu cầu của cả quốc gia thành một sức mạnh, vừa bền chắc, vừa mềm dẻo.

Và nhờ biết “nhuần mây cuốn” ấy nên trời Nam mới “rạng thái bình” và hình thành một triều đại mới

(8) “Vô vi cư điện các”, chữ vô vi này rõ ràng không còn mang ngữ nghĩa vô vi của Lão Tử mà cũng không là hoàn toàn thuật ngữ Phật học với ý nghĩa rỗng rang, giải thoát. Vô vi ở đây đã trở thành một khái niệm tổng hợp cả ba nền tư tưởng Nho – Phật – Lão. Nhà sư khuyên vua và Triều đình phải sống đời trung chính, đạo đức hiền thiện, thuận theo lẽ tự nhiên, đừng nhũng nhiễu, hao phí tài lực của lê dân… để noi gương cho bá tính. Khi triều đình sống được như vậy và nhân dân một lòng đoàn kết thì xứ xứ sẽ không còn đao binh và trời Nam sẽ thái bình thịnh trị.

(9) Về sau, Sư trụ trì chùa Cổ Sơn làng Thừ, quận Ải.

Niên hiệu Hưng Thống thứ hai (990), Sư không bệnh mà tịch, thọ bảy mươi sáu tuổi. Tác phẩm của Sư có:

*  Bồ-tát Hiệu Sám Hối Văn

*  Thơ tiếp Lý Giác

*  Một bài kệ.

Sư Pháp Thuận cùng với 2 quốc sư Khuông ViệtMinh Không được thờ ở nhiều chùa cổ trong quần thể di tích cố đô Hoa Lư như động Am Tiên, chùa Bà Ngô, chùa Nhất Trụ. Vào đêm 15/1 âm lịch hàng năm tại chùa Nhất Trụ, người dân cố đô Hoa Lư thường tổ chức vịnh thơ để đón tết nguyên tiêu.

Làng Lạng hay còn gọi là làng Ngoại Lãng thuộc xã Song Lãng, huyện Vũ Thư, cách thành phố Thái Bình khoảng 10km. Làng thờ Đỗ Pháp Thuận Giang Sứ thiền sư, ông sống vào thời Lê Hoàn (980 – 1005) làm Thành hoàng làng.

Tại Sai gọn vẫn còn tên đường Đỗ Pháp Thuận ở quận hai

This entry was posted in Sách Truyện, Thơ Văn. Bookmark the permalink.