Thế Nào Là Phật ? – Thế Nào Là Tổ ?

Quốc sư Thông Biện ( ? – 1134, đời thứ 8, Thiền Phái Vô Ngôn Thông )

Dựa vào câu hỏi của Hoàng Thái Hậu Phù Thánh Cảm Linh Nhân ( thời chưa có sách ghi lại lịch sử Phật Giáo ) nên lời giải đáp của Trí Không Thiền Sư giúp người thời ấy nhớ lại cả đường hướng Thiền Tông lịch sử.

Vì vậy Thông Biện Quốc Sư có công rất lớn cho việc giới thiệu nền tảng Phật Pháp và lịch sử Đạo Phật có mặt tại Trung Hoa từ thời vua Hán Minh Đế với hai Ngài Mạc Đằng và Trúc Pháp Lan đến từ Tây Vức và riêng VN ( đất Giao Châu ) thời ấy đã có Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương đến Lụy Lâu dịch Pháp Hoa tam muội và Mâu Bác…

Hơn thế nữa, … Chính nhờ Quốc sư Thông Biện đã trả lời ý nghĩa về Phật và Tổ cho Thái hậu Ỷ Lan đời Lý một cách tận tường như sau : ” Thường trụ ở thế gian, không sinh không diệt thì gọi là Phật. Hiểu rõ tâm tông của Phật, giảng và làm đi đôi với nhau, gọi là Tổ. Chỉ vì những kẻ kém học nói bậy là có bên hơn bên kém mà thôi. Vả lại Phật có nghĩa là “ Giác ” ( hiểu biết ) vốn lặng lẽ, thường trụ, tất cả chúng sinh đều có cùng lẽ ấy. Chỉ vì tình trần che lấp, trôi nổi theo nghiệp báo mà phân ly ra các cõi “.

Kính tạm mượn lời HT Thích Thái Hoà diễn giảng điều Quốc Sư Thông Biện đã giải thích ” Như vậy, qua sự trả lời về ý nghĩa Phật và Tổ của Quốc sư Thông Biện cho Thái hậu Ỷ Lan được ghi lại trong Thiền uyển tập anh đời Trần đã cho ta thấy, Phật và Tổ đồng thể với nhau về mặt giác ngộ, nhưng khác nhau về mặt trao truyền. Nghĩa là Phật tự thân Ngài giác ngộ, Tổ cũng giác ngộ như Phật, nhưng sự giác ngộ của Tổ lại được Phật ấn chứng và trao truyền.Và nghĩa này giúp cho ta nhận ra rằng: Những gì chư Tổ nói… là nói từ tâm tông, yếu chỉ của Phật ”.

Lại nữa, chư Tổ là Tăng. Phật Pháp Tăng ở trong ngôi Tam bảo, danh xưng thứ tự có trước sau, nhưng đồng một bản thể giác ngộ. Do đó, từ nơi bản thể giác ngộ mà Phật vận khởi tâm từ bi để nói kinh và cũng từ nơi bản thể giác ngộ ấy, mà chư Tổ vận khởi tâm từ bi để kết tập kinh điển. Ấy là ý nghĩa Phật và Tổ, mà những người đệ tử Phật cần phải hiểu, đừng để rơi vào tình trạng như Ngài Thông Biện nói: “ Ấy bọn lạm xưng học giả tự dối, nói là có hơn thua ”.

Kính ngưỡng và tri ân Đức Ngài Quốc Sư Thông Biện ( 1)
Tinh tường Tam Học, nghiên cứu lịch sử rõ ràng (2)
Đạo hiệu được ban từ Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan
Khi giải đáp rành rẽ khúc chiết câu hỏi rất quan trọng ! (3)

Nhờ tích sử hành trạng Ngài,học giả thấy được truyền thống
Thế nào Sự Lý, của Tâm Tông Tổ Sư Thiền
” Trực chỉ nhân tâm, kiến tính , giáo ngoại biệt truyền ”
Hậu thế mãi tranh cải về Bồ Đề Đạt Ma….
… quên Kim Cang Phật từng dạy (4)

Biện tài vô ngại với ….
….những tài liệu PGVN thời sơ khai dài trải (5)
Chi tiết cung cấp thời Khương Tăng Hội , Chi Cương Luong
Chùa Bạch Mã, kinh Tứ thập nhị chương ((6)
Được Ngài Ma Đằng, Trúc Pháp Lan dịch vào thời nhà Hán !

Và thiền sư Việt Nam đời Lý, còn chú trọng Ba bộ kinh diễn giảng
Song song kinh Viên Giác, Kim Cang chính là Kinh Pháp Hoa (7)
Mà địa ngục hay Niết-bàn là ở ngay chính tâm ta
… Khi thấu triệt được thực tướng của vạn pháp, (8)

Bài kệ của Hoàng Thái Hậu… thấy ra Đạo Giải thoát (9)
Trước khi ngộ tri kiến Phật phải trang bị kỹ càng
Thấy biết theo vọng tưởng là thấy biết của Phàm
Thấy biết thuần tịnh bất động là thấy biết như Phật
Tri kiến Phật tức là cái thấy biết như Phật.
Lý sắc, không chẳng vướng mắc … khế hợp như Thị

Nam Mô Quốc Sư Thông Biện tác đại chứng minh.

Huệ Hương – Melbourne 26/8/2021

(1) Quốc Sư Thông Biện là đạo hiệu được Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan ban tặng khi trả lời mọi câu hỏi về Lịch Sử Phật Pháp và Thiền Tông ( Thái hậu cả mừng, phong sư làm Tăng thống, ban áo ca sa màu tía, ban hiệu Thông Biện đại sư, hậu thường để tỏ rõ Vinh sủng. Sau Thái hậu lại thỉnh sư vào đại nội, phong làm quốc sư để tham vấn, nhờ đó hiểu sâu tôn chỉ của Thiền tông ).
Ngài là Trí Không thiền sư, là một thiền sư nổi danh trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
] Sư được xem là đời thứ 8 của dòng Vô Ngôn Thông và hành trạng được ghi chép lại trong bộ Thiền uyển tập anh (禪苑集英)

(2) Quốc sư người hương Đan Phương, họ Ngô, vốn dòng dõi Phật tử, bản tính thông tuệ, học thông tam giáo.
Lúc đầu sư tham vấn thiền học, đắc pháp với thiền sư Viên Chiếu ở chùa Cát Tường. Được Sư Phụ ấn chứng và nối pháp Sau đó có chiếu chỉ triệu về kinh đô Thăng Long trụ trì chùa Khai Quốc, sư tự xưng hiệu là Trí Không.

(3) Mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1096), ngày rằm tháng hai, Phù Thánh Cảm Linh Nhân Hoàng Thái Hậu đến chùa Khai Quốc thiết lễ trai tăng.
Trong lúc đàm đạo với các bậc túc tăng kỳ lão, Thái hậu hỏi:
– Phật và Tổ nghĩa thế nào? Ai hơn ai kém? Phật trụ phương nào? Tổ ở thành nào? Đến nước ta từ bao giờ? Việc truyền đạo ai trước ai sau? Mà người niệm tên Phật đạt tâm ấn của Tổ chưa rõ là những ai?
Bấy giờ mọi người đều im lặng cả, sư thưa rằng:
– Thường trụ ở thế gian, không sinh không diệt thì gọi là Phật.
Hiểu rõ tâm tông của Phật, giảng và làm đi đôi với nhau, gọi là Tổ. ( hành và giải đi đôi )
Chỉ vì những kẻ kém học nói bậy là có bên hơn bên kém mà thôi.
Vả lại Phật có nghĩa là “Giác” (hiểu biết) vốn lặng lẽ, thường trụ, tất cả chúng sinh đều có cùng lẽ ấy. Chỉ vì tình trần che lấp, trôi nổi theo nghiệp báo mà phân ly ra các cõi.
Phật vì lòng từ bi mà thị sinh ở đất Thiên Trúc, là vì xứ sở ấy ở vào khoảng chính giữa của trời đất. Phật mười chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo. Ở đời thuyết pháp bốn mươi chín năm, mở ra các pháp môn để giác ngộ cho người đời. Đấy là thời đại hưng giáo vậy. Khi sắp nhập Niết Bàn, lại sợ người hiểu lầm ý mình, Phật bèn bảo Văn Thù3 “Ta bốn mươi chín năm chưa từng nói một lời, sao lại bảo là ta có thuyết giáo ư?”
Nhân đó Phật cầm cành hoa giơ lên. Mọi người đều chưa hiểu Phật nói ý gì. Chỉ một mình Ca Diếp tôn giả mỉm cười. Phật biết Ca Diếp đã lĩnh ngộ, bèn đem chánh pháp nhãn tạng truyền cho. Đó là Tổ thứ nhất của dòng Tâm tông, được trao truyền bên ngoài giáo điển
Sau đó Ma Đằng đem pháp ấy đặt vào đất Hán.
Rồi Đạt Ma đem tông chỉ sang các nước Lương, Ngụy.
Việc truyền pháp đến Thiên Thai Trí Giả là thịnh, gọi là Giáo tông.
Về tôn chỉ của Đạt Ma thì đến Tào Khê Huệ Năng là sáng tỏ, gọi là Thiền tông.
Hai tông này truyền vào nước Việt ta đã lâu năm.
Về Giáo tông thì có Mâu Bác , Khương Tăng Hội
Thiền tông thì có phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) vào trước, phái Vô Ngôn Thông vào sau. Đó là tổ của hai phái.

(4) Kinh Kim Cang trong đoạn 6 nói về Chánh tín
Dữ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết: Nhữ đẳng Tỳ-kheo tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp.
Bởi do nghĩa ấy, Như Lai thường nói: Tỳ-kheo các ông nên biết, ta nói pháp ví dụ như chiếc bè, pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp.

(5) Biện tài vô ngại về mọi chuyện trên thế gian ngay trong hiện tại.
Ngài Thông Biện đã trình bày lịch hoằng pháp của các Thiền Sư hai phái thời Ngài đang sống như sau :
Thái hậu hỏi:
– Về Giáo tông thì chưa nói tới, nhưng còn hai phái thiền tông thì có gì chứng thực không?
Sư đáp:
– Xét về truyện Đàm Thiên pháp sư thấy chép rằng: Vua Tùy Cao Tổ (581 – 604) gọi sư là pháp khí và bảo: “Trẫm nghĩ đến đạo từ bi của Điều Ngự10 mà không biết làm sao để báo đáp ân đức. Trộm ở ngôi vua, trẫm đã hỗ trợ Tam bảo (Phật, Pháp và Tăng) khắp nơi: trong nước thì thu xá lợi xây 49 bảo tháp, ngoài nước thì dựng 150 chùa tháp để tiêu biểu cho đời.
Ở các xứ ngoài như Giao Châu cũng đã nhiều lần cho dựng chùa để ơn phúc nhuần thấm khắp cõi đại thiên. Nhưng xứ ấy tuy nội thuộc mà ràng buộc còn lỏng lẻo. Vậy pháp sư nên chọn những vị sa môn có danh đức đưa sang đó để giáo hóa, khiến cho tất cả đều được đạo Bồ Đề”.
Pháp sư Đàm Thiên tâu: “Xứ Giao Châu có đường thông với Thiên Trúc. Khi Phật pháp mới đến Giang Đông chưa khắp thì ở Luy Lâu đã có tới hai mươi ngôi bảo tháp, độ được hơn năm trăm vị tăng và dịch được mười lăm quyển kinh rồi.” Như vậy là Phật giáo đã truyền đến Giao Châu trước ta.
Hồi ấy đã có các vị tăng như Ma Ha Kỳ Vực , Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương 255) đến Lụy Lâu dịch Pháp Hoa tam muội và Mâu Bác v.v… cư trú tại đó. Nay lại có Pháp Hiền thượng sĩ đắc pháp với Tỳ Ni Đa Lưu Chi truyền bá tông phái của tổ thứ ba Tăng Xán. Pháp Hiền là vị bồ tát sống, hiện trụ trì ở chùa Chúng Thiện, giáo hóa không dưới ba trăm môn đồ, không thua kém gì ở Trung Quốc.
Bệ hạ là bậc cha hiền của khắp thiên hạ, muốn bố thí bình đẳng nên định đưa chư tăng sang giáo hóa. Nhưng họ đã có người rồi, ta không phải cho người sang nữa.
Lại có chứng cứ nữa: tướng quốc đời Đường là Quyền Đức Dư viết trong lời tựa sách Truyền Pháp rằng: “Lại sau khi Tào Khê (Huệ Năng) mất, thiền pháp thịnh hành, các dòng đều có kẻ nối, Thiền sư Chương Kính Huy đem những điều tâm pháp quan yếu của Mã Tổ đi thi hành giáo hóa ở miền Ngô, Việt. Vô Ngôn Thông đại sư đem tông chỉ của Bách Trượng Hoài Hải đi khai ngộ ở Giao Châu.” Đó là chứng cứ vậy.
Thái hậu lại hỏi:
– Sư truyền thừa của hai tông phái ấy thứ tự thế nào?
Sư đáp:
– Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi thì nay có Lâm Huệ Sinh, Vương Chân Không.
Phái Vô Ngôn Thông thì có Mai Viên Chiếu, Nhan Quảng Trí.
Dòng của Khương Tăng Hội thì nay có Lôi Hà Trạch.
Ngoài ra những phái phụ thì nhiều không kể xiết.

(6) Bạch Mã Tự hiện nay nằm cách thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, miền Đông Trung Quốc 9 km. Đó là nơi được các đệ tử Phật gia công nhận là nơi ở của các tổ sư Phật giáo và là nơi Phật Pháp được truyền dạy.
Theo truyền thuyết, vào thời Đông Hán, niên hiệu Vĩnh Bình, vua Hán Minh Đế (29-75 SCN) nằm mơ thấy một vị thần có sắc thân vàng bay từ phương Tây đến hoàng cung. Hôm sau nhà vua kể lại sự việc với các triều thần và được một vị đại thần tâu rằng ông nghe nói ở Tây Trúc có một người đắc đạo được xưng là Phật. Người này có thể bay trên không và thân thể phát ra ánh sáng vàng rực rỡ và tin rằng vị thần mà nhà vua gặp trong mơ có thể là Đức Phật đó.
Tin lời vị đại thần, nhà vua phái một phái đoàn gồm 18 người đến Tây Trúc để thỉnh kinh Phật. Phái đoàn này đến Ấn Độ và ba năm sau, vào niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10, cùng với hai Tăng sĩ Ấn Độ là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, họ trở về và mang theo một tượng Phật, xá lợi cùng với nhiều kinh sách được chở bởi một con ngựa trắng. Khi hai ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Lạc Dương, họ được thỉnh đến cư ngụ tại Hồng Lô tự, một dinh thự dành để tiếp đón khách nước ngoài. Năm tiếp theo nhà vua cho xây dựng một ngôi chùa bên ngoài Tây Ung Môn của Lạc Dương để cho hai vị Tăng cư ngụ và dịch kinh.
Sử sách ghi chép rằng: địa điểm xây dựng ngôi chùa vốn là nơi Hán Minh Đế sử dụng như một nơi nghỉ mùa hè. Ngôi chùa được đặt tên là “Bạch Mã” để tưởng nhớ công việc khó khăn mà con bạch mã đã đảm nhiệm: mang kinh Phật từ Ấn Độ đến Trung Quốc.Hai vị cao tăng Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan sau đó đã giảng Pháp tại Bạch Mã Tự và thay nhau hoàn tất việc dịch thuật “Tứ Thập Nhị Chương Kinh”, bản dịch kinh Phật đầu tiên bằng tiếng Hán văn vào năm 67 sau Tây lịch (st1), tại ddaay Có thể nói kinh Tứ Thập Nhị Chương là một trong những kinh văn có mặt đầu tiên, sớm nhất tại Trung Hoa.

(7) Về già, sư trụ trì ở chùa Phổ Ninh, mở đàn thuyết pháp. Phàm việc dạy người, sửa mình sư thường dẫn dụng đến kinh Pháp Hoa, vì vậy người đương thời gọi sư là Ngô Pháp Hoa
Ngày mười hai tháng hai năm Giáp Dần niên hiệu Thiên Chương Báo Tự thứ hai (1134) sư lâm bệnh rồi qua đời

(8) Vì mục tiêu Phật dạy chúng ta phải phấn đấu thực tập viên mãn Bát Chánh đạo thì cánh cửa Pháp hoa mới mở ra, mới đạt được trí tuệ đúng đắn mà hiểu biết bình thường không thể vói tới được. Theo HT Thích Thiện Siêu.
Những pháp môn Phật dạy trước đây tuy diệu nhưng chưa tuyệt đối, như khi phân thành Thanh văn, Duyên giác thừa và Ðại thừa, thì Ðại thừa là diệu, nhưng chỉ diệu tương đối với Thanh văn, Duyên giác, chưa phải diệu thật sự tuyệt đối. Ðến hội Pháp Hoa thì không còn đối đãi với Thanh văn, Duyên giác mà gồm chung tam thừa vào nhất thừa, nên mới thật là diệu pháp. Pháp Hoa nói thật tướng các pháp, thật tướng đó là: Tất cả pháp đều là Phật Pháp, tướng tánh bất nhị. ‘Thế gian tướng thường trụ’. Tất cả pháp, bởi thế, đều là diệu pháp (nhứt sắc nhứt hương vô phi trung đạo).
Diệu pháp đó ví như hoa sen với những điểm:
1. Sinh ra trong bùn mà không nhiễm bùn.
2. Khi hoa nở thì tỏa hương thanh khiết nhẹ nhàng.
Nghĩa là những pháp mà Phật nói ở trong Diệu pháp Liên hoa cũng phát xuất từ tam thừa pháp, ví như hoa sen vẫn sinh từ bùn. Cái hoa diệu pháp từ trước bị vùi lấp trong bùn kiến chấp của tam thừa, đến hội Pháp Hoa thì hoa sen từ bùn nở ra mà không dính bùn, lại tỏa hương vi diệu.
Kinh Pháp hoa là đạo đức và trí tuệ cao nhất của con người cùng với việc làm lợi lạc cho mọi người. Không phải kinh Pháp hoa là bộ kinh giấy trắng mực đen.
Thật vậy, thân giới đức theo Pháp hoa được ví như hoa sen ở trong bùn nhưng không nhiễm bùn mà tỏa hương sen là hương đạo đức. Tỳ-kheo tu Pháp hoa đã thành tựu giới đức và giới đức lan tỏa lực thuyết phục, cảm hóa người khác. Như vậy, kinh Pháp hoa và giới đức là một, hay kinh Pháp Hoa là bộ kinh của Thiền Tông
Ngoài ra, thực chất tu Pháp hoa, chẳng những thân tâm phải tinh khiết ví như hoa sen, nghĩa là phải trì giới thanh tịnh, Tỳ-kheo còn có Chánh định và có trí tuệ (Diệu pháp), không phải chỉ tụng kinh Pháp hoa suông. Phải chuyên tinh tu Thiền quán, tâm bừng sáng thì có Pháp hoa. Nghĩa là những gì mình thấy được khi Thiền quán là chứng được trí tuệ thì đó là Pháp hoa. Không chứng trí tuệ thì chỉ là đọc tụng văn tự Pháp hoa, không phải Pháp hoa thực sự.

(9) Thái hậu có làm kệ Ngộ Đạo như sau:
Sắc thị không, không tức sắc.
Không thị sắc, sắc tức không
Sắc, không câu bất quản
Phương đắc khế chân tông.
Dịch:
Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không
Sắc, không đều chẳng quản
Mới khế hợp chân tông

This entry was posted in Sách Truyện, Thơ Văn. Bookmark the permalink.