Quốc Sư Viên Thông

Quốc Sư Viên Thông (1080 – 1151, đời 18 Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi – Thời Vua Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông & Lý Anh Tông).

Một danh tăng đã ứng dụng, phối hợp tuyệt vời bài THẬP VƯƠNG PHÁP của Đức Phật trong kinh Bổn Sanh (Jàkata) khi hiến kế cho Vua Lý Thần Tông dùng để trị loạn và khắc phục sự Hưng Vong của một quốc qua. Bằng giá trị đạo đức và phương pháp ” chính trị toàn chân”để dẫn đắt nhân dân trong một quốc gia đạt được hạnh phúc an lạc…. “.

” THIÊN HẠ HƯNG VONG TRỊ LOẠN CHI NGUYÊN LUẬN “ là những lời đáp ( gọi là hiến kế ) của Quốc Sư Viên Thông khi Vua Lý Thần Tông triệu Sư vào cung để hỏi việc trị loạn, hưng vong của đất nước được lưu trữ trong văn khố quốc gia đã chứng tỏ Ngài tinh thông, quảng bác Phật Pháp nên đã mượn những lời dạy từ kim ngôn của Đức Thế Tôn về vai trò của người lãnh đạo một quốc gia.

(Nếu lãnh đạo là người có tài năng và đạo đức, đưa ra những đường lối, chủ trương tích cực, đúng hướng, có lợi ích cho nước cho dân thì mọi người nhờ đó mà có cuộc sống an vui hạnh phúc, đất nước đó ngày càng thịnh vượng, thái bình. Nhưng ngược lại, nếu lãnh đạo có “sở hành phi pháp” ( không có khả năng và tư cách đạo đức lãnh đạo, chỉ đạo sai lạc thì chắc chắn kéo theo vô số điều tiêu cực, hệ lụy ).

– Thiên hạ ví như món đồ dùng, đặt vào chỗ yên thì yên, đặt vào chỗ nguy thì nguy, chỉ ở đức vua thực hành khác nhau đó thôi. Đức hiếu sanh của vua nhuần thấm đến nhân dânthì nhân dân yêu vua như cha mẹ, tôn vua như mặt trời, mặt trăng, thế tức đặt thiên hạ vào chỗ yên vậy.

– Việc trị loạn còn ở các quan, được lòng người thì trị an, mất lòng người thì loạn lạc. Tôi trải xem các đế vương đời trước, chưa từng chẳng do dùng quân tử mà được hưng thạnh, vì dùng tiểu nhân mà bị nguy vong. Xét lý do như thế, không phải tại ngay một sớm một chiều, mà nguyên do của nó phát từ từ đã lâu lắm vậy.

Trời đất không thể làm nóng lạnh ngay, ắt phải dần dần từ Xuân sang Thu; nhân quân không thể làm trị loạn ngay, ắt phải dần dần từ thiện ác. Các thánh vương đời xưa biết thế, nên bắt chước trời tu đức sửa mình, bắt chước đất chăm tu đức để an dân.

Sửa mình là cẩn thận bên trong, run sợ như giẫm đi trên lớp băng mỏng.
Yêu dân là kính cẩn công chúng, nơm nớp như cầm roi nắm cương ngựa.
Được như thế thì đâu mà chẳng hưng; nếu trái lại thì đâu mà chẳng vong.

Lý do hưng vong từ từ như thế…

Và điều này đã minh chứng qua lịch sử rằng : ” Triều Lý – triều đại mở đầu cho nền văn minh Đại Việt đã để lại những dấu ấn đậm nét trên lĩnh vực về chính trị, quân sự trong hơn 200 năm tồn tại của mình “.

Và quan trọng nhất là… Phật giáo thời nhà Lý được xem là giai đoạn phát triển hưng thịnh nhất trong các triều đại phong kiến, tạo nên những nền tảng cơ bản về cả giáo lý, kiến trúc, văn hóa, đi sâu vào trong đời sống nhân dân và có ảnh hưởng đến sự phát triển của giai đoạn sau của Phật giáo thời nhà Trần, đặc biệt là sự ra đời của Thiền phái Trúc lâm Yên Tử. Với những thành tựu để lại, có thể nói, Phật giáo Việt Nam thời kỳ nhà Lý đã khẳng định được vai trò của một tôn gáo dân tộc với giáo lý, các thiền phái riêng, hướng phát triển gắn liền với nhân dân và đồng hành cùng quá trình xây dựng, phát triển nước Đại Việt.

Cũng theo Sử liệu Phật Giáo chúng ta được biết vào triều đại Nhà Lý đã có 6 vị Quốc Sư (Tăng thống) được tấn phong. Đó là:

1-Quốc sư Khuông Việt (933- 1011) do Hoàng đế Đinh Tiên Hoàng tấn phong;
2-Quốc sư Huệ Sinh (985- 1063) do Hoàng đế Lý Thánh Tông tấn phong;
3-Quốc sư Thông Biện (? -1134) do vua Lý Nhân Tông và Hoàng Thái hậu Ỷ Lan tấn phong;
4-Quốc sư Viên Thông (1080- 1151) do vua Lý Nhân Tông tấn phong;
5-Quốc sư Minh Không (1076-1141) do vua Lý Thần Tông tấn phong;
6-Quốc sư Khánh Hỷ (1066-1142) do vua Lý Thần Tông tấn phong;
Và mãi đến cuối thể kỷ 13 sang 14) mới có vị thứ bảy đó là… Quốc sư Quán Viên (do vua Trần Anh Tông tấn phong).

Điều đó đã làm những người con của Đấng Thế Tôn phải tự hào và hãnh diện vì Đấng Thế Tôn của chúng ta đã được tôn vinh là Đấng Chánh Biến Tri, Thế Gian giải, Thiên Nhân Sư trong mười ân đức mà chúng ta thường xưng tán mỗi thời công phu dù Đức Phật không phải là một nhà chính trị, Ngài không chủ trương kinh bang tế thế, thiết lập quy chế nhà nước, xây dựng hệ thống pháp luật. đức Phật là Đấng Đạo sư, một nhà đạo đức, tâm linh đồng thời là một nhà giáo dục, Ngài mở rộng phạm vi đóng góp cho tất cả chúng sinh chứ không giới hạn ở một quốc gia, dân tộc nào.

Đường hướng và chủ trương của Ngài đặt trên nền tảng đạo đức và tâm linh chứ không phải là chính trị, quyền lực và sự khôn ngoan của bản ngã. Mục đích duy nhất của Ngài là mang lại an lạc hạnh phúc cho tất cả chúng sinh. Đối với các nhà lãnh đạo quốc gia quản trị đất nước, những lời dạy của Ngài giúp họ đem lại hạnh phúc, thái hòa cho dân chúng.

Ở một khía cạnh khác, Trong kinh Bổn sinh (Jàkata), đức Phật còn nêu ra mười phẩm chất cần có của một lãnh đạo quốc gia để trị vì tốt đất nước, gọi là Thập vương pháp:

1-Phải có khí độ rộng lượng, cao thượng, vì dân chúng chứ không vì bản thân;
2-Sống đạo đức và hướng dẫn dân chúng sống đạo đức;
3-Sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân cho dân, cho nước;
4-Trung thực và liêm khiết, công bình, chính trực;
5-Nhân từ, đức độ, có hành vi, cách cư xử nhu hòa, từ ái đối với mọi người;
6-Sống thanh cao, giản dị, không thù oán, tị hiềm;
7-Thực thi bất bạo động, không làm tổn hại bất cứ ai;
8-Có lòng kiên trì, nhẫn nại;
9-Lấy lòng dân làm gốc, đưa ý dân lên hàng đầu .
10- Tôn trọng sự hòa hợp trong nội bộ quốc gia và hòa bình thế giới.

Trộm nghĩ trong Nho Giáo có câu: « Vua là thuyền, dân là nước, nước chở thuyền và nước cũng lật được thuyền ». (Tuân Tử )

Việc cai trị dân xưa nay cần có đức, đức độ khiến người lãnh đạo được tôn trọng trước cả tài năng, uy quyền.

Khi đặt người khác và chỗ yên vui hạnh phúc thì con người và xã hội sẽ được bình an, ngược lại sẽ gây nên chống đối hỗn loạn. Yên lành hay loạn lạc là do cách cư xử được lòng hay mất lòng người.

Muốn vậy, người lãnh đạo được khuyến khích nên gần người tốt và xa kẻ xấu để hướng dẫn dân cho tốt.

Kẻ gọi là « thiên tử » lòng cần hướng lên cao, « bắt chước trời » để tu đức mà sửa mình.Vua quan như bậc phụ mẫu, cha mẹ dân, cần cúi xem những nhu cầu cụ thể của con dân, «bắt chước đất » tu đức để an dân.

Chuyện an nguy của thiên hạ cũng như của mỗi người khởi đầu tự việc sửa mình, tâm tràn ngập bình an, luôn yêu thương coi trọng người khác.

Quả thật, nếu áp dụng thực thi được những lời đức Phật dạy thì vị quốc chủ là vị vua nhân từ, đức độ, anh minh sáng suốt có sức mạnh của muôn dân, lo gì đất nước không thái bình thịnh trị.

Khi mọi người dân đều yêu quê hương đất nước, đều tôn kính, quý mến các nhà lãnh đạo, các binh sĩ vì nước vì dân; khi quân và dân đoàn kết gắn bó một lòng, các chủ trương, chính sách nhà nước hợp lòng dân, xã hội an cư lạc nghiệp thì nền chính trị yên ổn, vững mạnh, đất nước hùng cường.

Và Lời Phật dạy trong Thập Vương Pháp… Đây không chỉ là những phẩm chất một vị vua cần có, mà còn là những phẩm chất của người đứng đầu chính phủ và lãnh đạo các bộ, các ngành thuộc bộ máy nhà nước cần phải có.

Kính trân trọng,

Kính ngưỡng …
Vị Danh tăng Quốc Sư Viên Thông, triều đại Lý
Vọng tộc Tăng Quan… từ nhỏ đã xuất gia
Tư chất thông minh …
… giáo pháp học, hiểu tinh diệu cao xa
Minh Sư Viên Học truyền tâm ấn, nối pháp Đạo (1)

Trúng tuyển đầu hoằng tài Tăng kiêm Thủ khoa Tam Giáo(2)
Thế học nội điển chuyên sâu nhưng lại khiêm nhu
Vua kính quý tiến chức Nội Cung Truyền Giảng Pháp Sư (3)
Hợp khế lý khế cơ … khiến giải ngu, lậu hoặc trừ diệt

Trùng tu chùa Diên Thọ, viết văn bia quá tuyệt !! (4)
Ban chức Tả Nhai Tăng lục … Vua mến mộ tài
Tham dự vào Cổ mệnh thảo đi chiếu, triển khai(5)
Cuối đời trụ trì Chùa Quốc Ân, nơi làng cũ

Đặc biệt nhất, văn khố quốc Ía còn lưu trử 6)
Luận về “THIÊN HẠ HƯNG VONG TRỊ LOẠN CHI NGUYÊN”
Bài kinh Bốn Pháp / Tăng Chi Bộ tiếp theo liền (7)
Nghiệp công đức và Thập Vương Pháp cho nhà lãnh đạo (8)

Kính ngưỡng Vị Quốc sư
… đã phụng hiến nhà Lý trải ba triều đại (9)
Kinh thơ văn quảng bác quá tuyệt vời(10)
Tiếc thay chiến tranh loan lạc, thiệt hại lớn cho đời
Tác phẩm hàng vạn bài nay Văn khố chỉ còn lưu lại Một

Nam Mô Quốc Sư Viên Thông tác đại chứng minh.

Huệ Hương – Melbourne 7/10/2021

_________________________________________

Chú thích :

(1) Sư tục danh Nguyễn Nguyên Ức, quê làng Cổ Hiền sau dời về phường Thái Bạch, kinh đô Thăng Long, lập nghiệp luôn tại đây. Thế tộc làm Tăng quan, cha tên Huệ Dục làm quan dưới triều Lý đến chức Tả hữu nhai Tăng lục, đạo hiệu là Bảo Giác thiền sư.

Sư tư chất thông minh, học hiểu đến chỗ tinh diệu, xuất gialúc còn nhỏ. Thọ học với Thiền sư Viên Học ở chùa An Quốc, huyện Cổ Hiền, Sư được thầy truyền tâm ấn.

(2) Năm thứ sáu niên hiệu Hội Phong (1097), Sư đậu Thủ khoa kỳ thi Tam giáo, sung chức Đại văn.

Đến năm thứ tám niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa (1108), Sư lại đứng đầu kỳ tuyển khoa hoằng tài để bổ khuyết Tăng đạo.

(3) Nhà vua quá quí kính muốn đem chánh sự giao phó cho Sư, Sư cố từ chối chẳng dám nhận. Vua bèn tiến chức Nội cung Phụngtruyền giảng pháp sư.

Bấy giờ, Sư tùy cơ giảng giải giáo lý, khiến người giác ngộ, phá ngu giải hoặc không còn dư thừa. Những người thụ giáo nơi Sư đều nổi tiếng sau này.

(4) Năm thứ ba niên hiệu Hội Tường Đại Khánh (1112), sau khi trùng hưng ngôi chùa Diên Thọ, Vua sắc Sư làm bài văn bia. Vua mến phục tài, phong Sư lên chức Tả nhai Tăng lục.

(5) Năm thứ năm niên hiệu Thiên Chương Bảo Tự (1137), Vua sắp băng, Sư có dự vào hàng Cố mệnh thảo tờ di chiếu. Vua phó thác mọi việc cho Sư.

(6) Năm thứ ba niên hiệu Thiên Thuận (1130), vua Lý Thần Tông triệu Sư vào cung để hỏi việc trị loạn, hưng vong của đất nước. Sư đáp:

– Thiên hạ ví như món đồ dùng, đặt vào chỗ yên thì yên, đặt vào chỗ nguy thì nguy, chỉ ở đức vua thực hành khác nhau đó thôi. Đức hiếu sanh của vua nhuần thấm đến nhân dânthì nhân dân yêu vua như cha mẹ, tôn vua như mặt trời, mặt trăng, thế tức đặt thiên hạ vào chỗ yên vậy.

Sư lại tiếp:
– Việc trị loạn còn ở các quan, được lòng người thì trị an, mất lòng người thì loạn lạc. Tôi trải xem các đế vương đời trước, chưa từng chẳng do dùng quân tử mà được hưng thạnh, vì dùng tiểu nhân mà bị nguy vong. Xét lý do như thế, không phải tại ngay một sớm một chiều, mà nguyên do của nó phát từ từ đã lâu lắm vậy.

Trời đất không thể làm nóng lạnh ngay, ắt phải dần dần từ Xuân sang Thu; nhân quân không thể làm trị loạn ngay, ắt phải dần dần từ thiện ác. Các thánh vương đời xưa biết thế, nên bắt chước trời tu đức sửa mình, bắt chước đất chăm tu đức để an dân.

Sửa mình là cẩn thận bên trong, run sợ như giẫm đi trên lớp băng mỏng.
Yêu dân là kính cẩn công chúng, nơm nớp như cầm roi nắm cương ngựa.
Được như thế thì đâu mà chẳng hưng; nếu trái lại thì đâu mà chẳng vong.

Lý do hưng vong từ từ như thế.

Vua nghe qua rất hài lòng, lại thăng Sư chức Hữu nhai Tăng thống, Tri giáo môn Công sự. Sư nghiêm trang đến gần dâng Vua một bài châm để làm qui củ, lúc nào cũng chăm chỉ chưa từng thiếu sót.

(7) “Mong rằng tài sản khởi lên cho ta đúng pháp”. Ðây là pháp thứ nhất, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó được ở đời. “Tài sản đã được đúng pháp, mong rằng tiếng tốt được đồn về ta, cùng với bà con, và các bậc Thầy”. Ðây là pháp thứ hai, khả lạc… khó được ở đời. “Tài sản đã được đúng pháp, tiếng tốt đã được đồn về ta, cùng với bà con, và các bậc Thầy, mong rằng ta sống lâu, hộ trì thọ mạng kéo dài”. Ðây là pháp thứ ba, khả lạc… khó được ở đời. “Tài sản đã được đúng pháp, tiếng tốt đã được đồn về ta, cùng với bà con, và các bậc Thầy, sau khi được sống lâu, hộ trì thọ mạng kéo dài, mong rằng khi thân hoại mạng chung, ta sanh lên cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này”. Ðây là pháp thứ tư, khả lạc… khó được ở đời.

Bốn pháp này, này Gia chủ, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó tìm được ở đời.

3. Này Gia chủ, đối với bốn pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó được ở đời này, có bốn pháp đưa đến chứng được những pháp ấy. Thế nào là bốn?

Ðầy đủ lòng tin, đầy đủ giới, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ.

4. Và này Gia chủ, thế nào là đầy đủ lòng tin? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: Vị này là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Này Gia chủ, đây gọi là đầy đủ lòng tin.

5. Và này Gia chủ, thế nào là đầy đủ giới? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh… từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Này Gia chủ, đây gọi là đầy đủ giới.

6. Và này Gia chủ, thế nào là đầy đủ bố thí? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử sống ở gia đình, tâm không bị cấu uế xan tham chi phối, bố thí rộng rãi, với bàn tay rộng mở, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, vui thích san sẻ vật bố thí. Này Gia chủ, đây gọi là đầy đủ bố thí.

7. Và này Gia chủ, thế nào là đầy đủ trí tuệ? Này Gia chủ, sống với tâm bị dục tham chinh phục, làm việc không nên làm, không làm việc nên làm. Do làm việc không nên làm, không làm việc nên làm, vị ấy rời khỏi danh tiếng và an lạc. Này Gia chủ, sống với tâm vị sân hận chinh phục… sống với tâm bị hôn trầm thụy miên chinh phục… sống với tâm bị trạo hối chinh phục… sống với tâm bị nghi chinh phục, làm việc không nên làm, không làm việc nên làm; do làm việc không nên làm, không làm việc nên làm, vị ấy rời khỏi danh tiếng và an lạc.

8. Này Gia chủ, Thánh đệ tử ấy, sau khi biết được dục tham là uế nhiễm của tâm, từ bỏ dục tham, uế nhiễm của tâm; sau khi biết được sân hận là uế nhiễm của tâm, từ bỏ sân hận, uế nhiễm của tâm; sau khi biết được hôn trầm thụy miên là uế nhiễm của tâm, từ bỏ hôn trầm thụy miên, uế nhiễm của tâm; sau khi biết được trạo hối là uế nhiễm của tâm, từ bỏ trạo hối, uế nhiễm của tâm; sau khi biết được nghi là uế nhiễm của tâm, từ bỏ nghi, uế nhiễm của tâm; này Gia chủ, đây gọi là vị Thánh đệ tử có đại trí tuệ, có trí tuệ rộng lớn, bước vào giới vức minh kiến, đầy đủ trí tuệ. Ðây gọi là đầy đủ trí tuệ.

Trong kinh Tăng chi bộ I (chương Bốn pháp, phẩm Nghiệp công đức), đức Phật đã nêu lên vai trò của người lãnh đạo một tổ chức hay một quốc gia như sau: “Khi đàn bò lội sông/ Đầu đàn đi sai lạc/ Cả đàn đều đi sai/ Vì hướng dẫn sai lạc/ Cũng vậy, trong loài người/ Vị được xem tối thắng/ Nếu sở hành phi pháp/ Còn nói gì người khác/ Cả nước bị đau khổ/ Nếu vua sống phi pháp/ Khi đàn bò lội sông/ Đầu đàn đi đúng hướng/ Cả đàn đều đúng hướng/ Vì hướng dẫn đúng đường/ Cũng vậy trong loài người/ Vị được xem tối thắng/ Nếu sở hành đúng pháp/ Còn nói gì người khác/ Cả nước được an vui/ Nếu vua sống đúng pháp.

(8) và Thập vương Pháp trong kinh Bản Sanh cũng có nội dung tương tự

Ở một khía cạnh khác, trong kinh Tiểu bộ (chuyện tiền thân), Phật dạy về những đức tính cần có của một vị vua chân chính, cai trị quốc độ bằng cách từ bỏ mọi ác đạo, không xâm phạm Thập vương pháp và luôn hành động chân chính.

Đó chính là mười phẩm hạnh của một minh quân: “Bố thí, nhân từ, đức hạnh, công bình, thân ái, nhu mì, ôn hòa, nhẫn nhục, ăn năn, bi mẫn, là mười giới đức”

Đức Phật đã nhấn mạnh vào sự thật, cái xấu hay cái tốt của dân chúng tùy thuộc vào sự hành xử của người trị vì họ.

Ngài đặt ra mười phẩm hạnh cho bậc quân vương để thực hành, hướng đến xây dựng xã hội lý tưởng mà thực chất là cuộc cải tạo đạo đức tự thân, đưa đến xã hội an lạc.

Mười phẩm chất của một vị vua anh minh, hiền đức đó là

1-Bố thí, có tấm lòng từ thiện, xả kỷ vị tha (trong quản trị đất nước thì điều này thể hiện ở các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội);

2-Trì giới, giữ gìn đạo đức (giữ năm giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu);

3-Bao dung, rộng lượng, giàu lòng hy sinh;

4-Liêm khiết, nghiêm minh, chính trực, công bằng;

5-Nhu hòa

6.Sống khắc kỷ, giản dị (không đắm mình trong hưởng thụ, trụy lạc, không xa xỉ, biết chế ngự những ham muốn, dục vọng);

7-Không sân hận (không gieo thù kết oán với ai, không ganh ghét, đố kỵ, thù hằn);

8-Yêu hòa bình (không gây chiến, từ bi, bất bạo động);

9-Kham nhẫn, chịu đựng;

10-Thuận lòng dân.

Đối với Phật giáo, đức hạnh là nền tảng, phẩm chất quan trọng của một người và xuất phát từ những việc làm cụ thể. Theo Phật, bản chất của đức hạnh không đến từ kế thừa dòng họ mà có từ chính hành động của mỗi người: “Hành động làm ăn trộm, hành động làm nhà binh, hành động làm tế quan, hành động làm vua chúa

Một khi vương quyền có đức hạnh, nhà nước có đạo đức thì điều kiện hạnh phúc của mọi công dân được khẳng định và bảo đảm.

(9) Quốc Sư sanh vào thời vua Lý Nhân Tông và nhỏ hơn vua Lý Nhân Tông 11 tuổi.

Những giai đoạn làm Tăng Quan thường xảy ra vào thời Vua Lý Thần Tông như đọan này

” Sau khi đáp lời Vua với bài văn Thiên hạ hưng vong trị loạn ….Vua nghe qua rất hài lòng, lại thăng Sư chức Hữu nhai Tăng thống, Tri giáo môn Công sự. Sư nghiêm trang đến gầndâng Vua một bài châm để làm qui củ, lúc nào cũng chăm chỉ chưa từng thiếu sót.

Năm thứ năm niên hiệu Thiên Chương Bảo Tự (1137), Vua sắp băng, Sư có dự vào hàng Cố mệnh thảo tờ di chiếu. Vua phó thác mọi việc cho Sư.

Năm thứ nhất niên hiệu Thiệu Minh (1138), vua Lý Anh Tông lên ngôi, Thái hậu xét thấy Sư có công lớn nên rất trọng hậu.

Sau, Sư về làng Cổ Hiền tỉnh Nam Định lập ngôi chùa hiệu Quốc Ân trụ trì đến già. Những thôn gần đây lấy thuế cung cấp mọi phí dụng cho Sư.

Năm thứ tư niên hiệu Đại Định (1143), nhà vua vinh thăngSư chức Tả hữu nhai Tăng thống, Nội cung phụng Tri giáo môn Công sự, Truyền giảng Tam tạng Văn chương, Ứng chế Hộ quốc quốc sư và ban tử y.

Ngày 21 tháng 4 năm Tân Mùi, niên hiệu Đại Định (1151), Sư họp chúng từ biệt, không bệnh mà tịch, thọ bảy mươi hai tuổi.

(10) Tác phẩm của Sư:

1.- Chư Phật Tích Duyên Sự, ba mươi quyển.

2.- Hồng Chung Văn Bi Ký.

3.- Tăng Gia Tạp Lục, hơn năm mươi quyển.

4.- Viên Thông Tập, hơn một ngàn bài thơ.

This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.