CHƯƠNG 6: BẠN BÈ CỦA CHÚNG TA Ở TRÊN TRỜI
Nhưng chúng ta hãy quay lại phần thứ nhì của đề tài tức là vấn đề mối quan hệ của con người với những người mà y yêu thương hoặc với những người mà y cảm thấy sùng tín hoặc ngưỡng mộ. Người ta cứ hỏi gặng đi gặng lại chúng tôi rằng trong sinh hoạt rộng lớn này liệu họ có biết hoặc gặp được những người thân thương của mình hay chăng; liệu trong số mọi sự lộng lẫy không thể tưởng tượng được này họ có hoài công tìm kiếm những khuôn mặt quen thuộc mà nếu không có những khuôn mặt đó thì tất cả dường như chỉ là phù phiếm đối với họ. May mắn thay cho câu hỏi này là lời giải đáp thật minh bạch và vô điều kiện: Không còn nghi ngờ gì nữa, những người bạn sẽ ở đó thậm chí còn sung mãn hơn và có thực hơn bao giờ hết so với khi họ sống chung với chúng ta.
Thế nhưng người ta lại thắc mắc rằng: “Nếu người bạn của chúng tôi đã hưởng sinh hoạt trên cõi trời rồi thì liệu họ có thể thấy chúng tôi ở dưới đây chăng? Liệu họ có quan sát chúng tôi và chờ đợi chúng tôi không?” Thật là khó lòng, vì có những khó khăn cản đường cả hai thuyết này. Làm sao mà người quá cố có thể hạnh phúc được nếu y ngoái nhìn lại và thấy những người mình yêu thương đang buồn rầu hoặc đau khổ; hoặc tệ hơn nữa là đang phạm tội? Nếu chúng ta chấp nhận phương án khác theo đó y không thấy nhưng chỉ đang chờ đợi thì hoàn cảnh này cũng chẳng có gì khá hơn. Đó là vì con người sẽ phải chờ đợi một thời kỳ dài dễ gây mỏi mệt, một thời kỳ ngưng đọng đau khổ thường kéo dài qua nhiều năm, trong khi đó có nhiều trường hợp người bạn đâm ra thay đổi nhiều đến mức y không còn đồng cảm nữa. Trong hệ thống mà Thiên nhiên đã khôn ngoan cung cấp cho ta mọi khó khăn này đều tránh được; những kẻ mà con người yêu thương nhất bao giờ cũng cận kề với y và luôn luôn xuất hiện dưới dạng cao cả nhất và tốt đẹp nhất sao cho không một bóng dáng bất hòa hoặc thay lòng đổi dạ nào có thể xen vào giữa đôi bên, vì lúc nào y cũng nhận được từ họ đúng cái điều mà y mơ ước. Sự dàn xếp này vô cùng cao siêu hơn bất cứ điều gì mà óc tưởng tượng của con người có thể phô diễn cho ta thay vào đó (theo như ta quả thực trông đợi) vì mọi sự suy đoán ấy vốn dựa theo ý tưởng con người nghĩ ra điều gì tốt đẹp nhất, nhưng sự thật thì đó là ý tưởng của Thượng Đế. Tôi xin cố gắng giải thích điều này.
Bất cứ khi nào ta yêu thương một người thật sâu sắc thì ta đều tạo ra một hình tư tưởng kiên cố về người đó và y thường hiện diện trong tâm trí của ta. Tất nhiên là chúng ta mang theo hình tư tưởng đó vào trong cõi trời của mình, vì đó là mức độ vật chất mà hình tư tưởng tự nhiên là thuộc về nó. Nhưng tình thương vốn tạo dựng và nuôi dưỡng một hình tư tưởng như thế là một lực rất mãnh liệt – một lực đủ mạnh để đạt tới và tác động lên linh hồn của người bạn đó, vốn là con người chân thực mà ta yêu mến. Linh hồn đó tức khắc nồng nhiệt đáp ứng và tuôn đổ bản thân vào trong hình tư tưởng mà chúng ta đã tạo ra về người bạn và bằng cách đó ta thấy bạn mình quả thực hiện diện với chúng ta linh hoạt hơn bao giờ hết. Nên nhớ rằng chúng ta yêu thương linh hồn chứ không phải là thể xác, và chúng ta kề cận với linh hồn ở đây. Người ta có thể nói rằng: “Được thôi, ắt là như vậy nếu người bạn đã chết rồi, nhưng giả sử y vẫn còn sống thì y không thể cùng một lúc ở hai nơi chốn khác nhau. Sự thật là xét về vấn đề này thì y có thể cùng một lúc ở hai nơi chốn khác nhau, và thường là ở nhiều hơn cả hai nơi nữa; cho dù y ở tình trạng mà ta thường gọi là còn sống hoặc tình trạng mà ta thường gọi là đã chết rồi, thì điều này cũng chẳng có gì khác nhau. Ta hãy rán hiểu xem linh hồn thực sự nghĩa là gì thì ta mới lĩnh hội được làm thế nào có thể như vậy.
Linh hồn thuộc về một cõi cao hơn và là một sự vật cao cả vĩ đại hơn bất kỳ biểu lộ nào của nó. Mối quan hệ của nó với các biểu lộ là quan hệ của một chiều đo này với một chiều đo khác: quan hệ của hình vuông đối với một đường thẳng hoặc một hình khối vuông đối với một hình vuông. Không một số lượng hình vuông nào có thể tạo ra được hình khối vuông vì hình vuông chỉ có hai chiều đó còn hình khối vuông có tới ba chiều đo. Cũng vậy không có một số lượng biểu diễn nào trên bất kỳ cõi thấp nào có thể vét cạn được sự viên mãn của linh hồn vì linh hồn ở một mức độ cao hơn hẳn. Y đầu tư một phần nhỏ bản thân vào trong một thể xác để thu được kinh nghiệm vốn chỉ có thể thực hiện trên cõi này; vào một lúc nào đó y chỉ có thể sử dụng một thể xác vì đó là định luật; nhưng cho dẫu y có thể sử dụng một ngàn thể xác thì chúng cũng không đủ sức biểu diễn chân tướng của linh hồn. Y chỉ có thể có một thể xác duy nhất, nhưng nếu y khơi dậy được tình thương của một người bạn và người bạn đó có một hình tư tưởng kiên cố của y luôn luôn hiện diện trong tư tưởng của người bạn, thì y có thể đáp ứng với tình thương đó bằng cách tuôn đổ sự sống của chính mình vào trong hình tư tưởng đó, và làm cho nó linh hoạt để thực sự biểu diễn được mình trên cõi này, vốn cao hơn cõi hồng trần tới trọn cả hai cõi. Vì vậy nó có thể biểu diễn được những đức tính của y trọn vẹn hơn nhiều.
Nếu ta vẫn còn cảm thấy khó hiểu làm thế nào mà tâm thức của linh hồn có thể hoạt động được trong sự biểu lộ đó cũng như trong sự biểu lộ dưới đây, thì ta hãy so sánh điều này với một sự kinh nghiệm thông thường trên cõi trần. Khi ngồi trong một cái ghế dựa, mỗi người trong chúng ta đều đồng thời có ý thức về nhiều sự tiếp xúc của thể xác. Y có tiếp xúc với cái mặt ghế, chân y dựa trên mặt đất, tay y dựa vào cái thành ghế hoặc có lẽ đang cầm một quyển sách, thế mà bộ óc của y đâu có khó khăn gì trong việc cùng một lúc nhận thức được mọi sự tiếp xúc này. Vậy thì linh hồn (vốn có tâm thức cao cả hơn hẳn so với ý thức trên cõi trần) lại phải gặp khó khăn khi đồng thời có ý thức nơi nhiều hơn một biểu lộ trên các cõi hoàn toàn ở dưới linh hồn? Quả thật là có một con người duy nhất cảm thấy thấy cả những sự tiếp xúc khác nhau này; quả thật là có một người duy nhất cảm thấy mọi hình tư tưởng khác nhau này và nó đang thực sự linh hoạt và yêu thương trong mọi hình tư tưởng ấy. Ở đó ta có linh hồn luôn luôn đạt mức tốt nhất, vì đây là một biểu hiện viên mãn hơn hẳn so với mức trên cõi trần ngay cả trong những hoàn cảnh thuận lợi nhất.
Ta có thể thắc mắc liệu điều này có ảnh hưởng tới sự tiến hóa của người bạn về bất kỳ phương diện nào hay chăng? Chắc chắn là có, vì nó giúp cho y có thêm cơ hội để biểu lộ được. Nếu y có một thể xác thì y đã học được những bài học thể chất thông qua thể xác rồi, nhưng điều này đồng thời còn giúp cho y phát triển được đức tính yêu thương nhanh hơn hẳn so với hình tư tưởng trên cõi trí tuệ mà bạn đã dành cho y. Vì thế tình thương của bạn dành cho y đã mang lại nhiều điều lớn lao giúp cho y. Như ta đã nói, linh hồn có thể biểu lộ qua nhiều hình tư tưởng nếu nó có đủ may mắn để được người ta tạo ra những hình tư tưởng cho nó. Một kẻ được nhiều người yêu mến có thể tham gia vào nhiều cõi trời cùng một lúc, và như vậy có thể tiến hóa nhanh hơn nhiều, nhưng cơ hội rộng lớn phụ thêm này lại là kết quả trực tiêp và là phần thưởng của những đức tính dễ thương giúp thu hút về phía y cái sự luyến ái nể vì của biết bao nhiêu đồng loại. Như vậy, chẳng những y nhận được tình thương của tất cả những người này, mà nhờ vào sự tiếp nhận đó bản thân y còn tăng tiến tình thương hơn nữa cho dù những người bạn còn sống hay đã chết.
Tuy nhiên ta nhận thấy rằng có thể có hai điều hạn chế sự hoàn thiện của cách giao tiếp này. Một là hình tư tưởng về người bạn của mình có thể chỉ riêng phần và bất toàn sao cho nhiều đức tính cao siêu của người bạn không thể biểu diễn được, do đó không thể bộc lộ qua hình tư tưởng. Hai là có thể có một khó khăn nào đó về phía người bạn của mình. Bạn có thể đã tạo ra một quan niệm không được chính xác lắm, nếu bạn của mình còn chưa phải là một linh hồn tiến hóa cao thì có thể thậm chí bạn đã đánh giá cao người bạn theo một hướng nào đó và trong trường hợp này hình tư tưởng của bạn có thể có một khía cạnh nào đó mà người bạn kia không thể hoàn toàn thực hiện được. Tuy nhiên, trường hợp này rất ít khi xảy ra và chỉ có thể khi một đối tượng hoàn toàn không xứng đáng lại được thần tượng hóa một cách thiếu khôn ngoan. Ngay cả lúc bấy giờ thì con người tạo ra hình tư tưởng cũng chẳng thấy người bạn mình có gì thay đổi hoặc thiếu sót vì người bạn này ít ra cũng có thể minh chứng được lý tưởng của mình nhiều hơn mức trong buổi sinh thời. Vì chưa tiến hóa cao cho nên người bạn có thể chưa hoàn hảo, nhưng ít ra thì y cũng còn khá hơn trước, do đó không có gì làm mất vui cho kẻ đang ở trên cõi trời. Bạn của mình có thể tuôn ra hàng trăm hình tư tưởng với những đức tính mà mình có, nhưng khi y chưa phát triển được một đức tính nào đó thì y cũng không thể đột nhiên làm cho nó tiến triển được chỉ vì bạn giả sử rằng y đã được đức tính đó. Đây là ưu điểm to lớn mà những người tạo hình tư tưởng có được so với mức không làm cho họ phải thất vọng vì không thể có sự thất vọng như thế, nói cho đúng hơn là đối với những người có thể vươn lên cao vượt khỏi cái quan niệm cao siêu nhất mà hạ trí có thể hình dung ra được. Nhà Thông Thiên Học nào tạo ra trong trí mình hình tư tưởng về Chơn sư đều biết rằng mọi sự khiếm khuyết là do lỗi của mình, vì từ đó y đã rút ra được một độ sâu bác ái và quyền năng mà cái dây dọi trí tuệ của y chưa từng thăm dò được.
Nhưng người ta có thể thắc mắc rằng vì linh hồn mất quá nhiều thời gian để hưởng thụ sự phúc lạc của cõi trời, cho nên đâu là cơ hội của y để phát triển trong khi ở trên đó? Những cơ hội này có thể chia thành ba loại, mặc dù mỗi loại có thể có nhiều biến thể. Một là nhờ vào một số đức tính nơi bản thân y đã mở ra được một số cửa sổ vào trong cõi trời này; bằng cách liên tục vận dụng những đức tính đó qua một thời gian lâu dài như thế, y sẽ tăng cường chúng lên rất nhiều và trong kiếp tới y sẽ trở về trần thế và được thiên phú dồi dào theo chiều hướng đó. Mọi tư tưởng đều được củng cố bằng cách lập đi lập lại và kẻ nào mất cả ngàn năm trời chủ yếu để tuôn ra những tình cảm vị tha thì chắc chắn là vào cuối thời kỳ đó sẽ biết được tình thương mạnh mẽ và tốt đẹp đến mức nào.
Hai là nếu thông qua cửa sổ đó, y tuôn ra một hoài bão khiến y tiếp xúc được với một trong các cấp đẳng lớn chơn linh thì y chắc chắn là sẽ thu hoạch được nhiều điều do sự giao tiếp với các chơn linh đó. Trong âm nhạc họ sẽ sử dụng mọi loại hài âm và biến điệu mà trước kia y chưa hề biết tới, trong nghệ thuật họ sẽ quen thuộc với cả ngàn loại hình mà y chưa hề quan niệm tới. Nhưng tất cả những điều này sẽ dần dần gây ấn tượng lên y và cũng bằng cách này, y sẽ thoát ra khỏi cõi trời vinh quang đó mà phong phú hơn nhiều so với khi y nhập vào đó.
Ba là y sẽ có được thêm thông tin qua những hình tư tưởng mà y đã tạo ra nếu bản thân người này tiến hóa đủ cao để có thể dạy dỗ y. Một lần nữa, nhà Thông Thiên Học nào đã tạo ra được hình tư tưởng về một Chơn sư ắt nhờ đó mà có được sự trợ giúp và giáo huấn rất xác định, và ở một mức độ kém hơn thì những người thuộc trình độ kém hơn cũng có thể đạt được như vậy.
Vượt trên mọi điều này là cuộc sống của linh hồn hay chơn ngã trong thể thượng trí, tức là hiện thể mà linh hồn mang theo mình từ kiếp này sang kiếp khác, ngoại trừ việc tiến hóa dần dần. Thậm chí cái sinh hoạt vinh quang trên cõi trời đó cũng sẽ có lúc chấm dứt, lúc bấy giờ đến lượt thể trí cũng bị bỏ quên giống như những thể khác bị bỏ rơi và sinh hoạt trong thể thượng trí bắt đầu. Ở đây linh hồn không cần cửa sổ nào cả vì đây là nơi cư ngụ chân thực của nó, và ở đây mọi bức tường đều sụp đổ. Cho đến nay đa số mọi người chỉ có rất ít ý thức về một tình trạng cao tột như thế này; họ vẫn còn mơ mộng không quan sát đầy đủ và hiếm khi nào tỉnh táo, nhưng tầm nhìn như vậy là chân thực mặc dù nó bị hạn chế do họ chưa được phát triển. Thế nhưng mỗi khi trở lại thì họ sẽ thấy những sự hạn chế này thu hẹp đi và bản thân họ sẽ trở nên cao cả hơn sao cho sinh hoạt chân thực nhất này sẽ rộng mở và viên mãn hơn đối với họ. Khi sự cải thiện tiếp tục thì sinh hoạt trong thể thượng trí này càng ngày càng dài ra, chiếm một tỉ lệ càng ngày càng lớn so với sự tồn tại trên các cõi thấp hơn. Và khi đã phát triển chẳng những con người có thể tiếp nhận mà còn có thể cho ra nữa. Lúc bấy giờ quả thật là sự chiến thắng của y đã đến gần, vì y đang học bài học của Chúa Ki Tô, học được vinh quang tột độ của lòng hi sinh, niềm vui tối cao trong việc tuôn đổ mọi sự sống của mình ra để trợ giúp cho đồng loại, tận hiến bản thân cho mọi người, tận hiến sức mạnh thiên giới để phục vụ con người, tận hiến mọi sức lực huy hoàng trên cõi trời để giúp cho những đứa con đang phấn đấu trên trần thế. Đây là một phần của sinh hoạt mở ra trước mắt chúng ta, đây là một số bước mà ngay cả chúng ta (vốn cho đến nay vẫn còn ở dưới đáy của cái thang bằng vàng) cũng có thể thấy vươn lên trước mắt mình sao cho chúng tôi có thể tường thuật chúng lại cho bạn vốn còn chưa thấy được chúng, để cho bạn cũng có thể mở mắt mình ra với sự huy hoàng lộng lẫy không thể tưởng tượng được vốn bao xung quanh bạn ở đây và ngay bây giờ trong sinh hoạt thường nhật buồn tẻ này. Đây là một phần của phúc âm mà Thông Thiên Học mang lại cho bạn: chắc chắn rằng tương lai cao quí này sẽ dành cho tất cả. Nó vốn chắc chắn vì nó đã ở đây rồi, vì muốn kế thừa được nó chúng ta chỉ cần thích ứng được nó.
_____________________________
CHƯƠNG 7: CÁC THIÊN THẦN HỘ MỆNH
Theo ý tôi, một trong những điều đẹp đẽ nhất trong giáo huấn Thông Thiên Học đó là việc nó trả lại cho con người tất cả mọi niềm tin hữu dụng và hữu ích nhất của những tôn giáo mà con người đã vượt qua rồi. Có nhiều người, mặc dù cảm thấy rằng mình không thể chấp nhận được nhiều điều vốn thường được coi là vấn đề đương nhiên, song le họ lại ngoái nhìn một số ý niệm ấu trĩ trí tuệ với một sự nuối tiếc nào đó. Họ đã ra khỏi ánh sáng nhá nhem để nhập vào ánh sáng trọn vẹn; họ biết ơn vì sự thật đó nên họ không thể quay lại với thái độ trước kia cho dù họ có muốn như vậy; thế nhưng một số mơ ước trong cảnh ánh sáng nhá nhem thật là dễ thương và ánh sáng thanh thiên bạch nhật đôi khi dường như khó sánh được với những sắc thái mờ ảo hơn. Ở đây Thông Thiên Học đã đến cứu chuộc họ và cho họ thấy rằng mọi sự vinh quang mỹ lệ và thi vị, mọi cảnh thoáng nhìn mà họ thường mơ hồ cảm nhận được trong ánh sáng nhá nhem vốn tồn tại dưới dạng một thực tại sống động, và thay vì biến mất đi trước ánh sáng thanh thiên bạch nhật thì sự rực rỡ của nó chỉ càng được phô diễn linh động hơn nữa. Nhưng giáo huấn của ta trả lại cho họ sự thi vị đó dựa vào một căn bản hoàn toàn mới – căn bản đó là một sự kiện khoa học thay vì là một truyền thuyết bấp bênh. Ta thấy một ví dụ điển hình của đức tin đó trong tựa đề “Thiên thần Hộ mệnh”. Có nhiều truyền thuyết dễ thương về sự hộ mệnh tâm linh và sự can thiệp của thiên thần mà tất cả chúng ta đều muốn tin theo miễn là chúng ta thấy được cách thức chấp nhận chúng một cách hợp lý, và tôi hi vọng rằng mình sẽ giải thích được điều này đến mức tối đa.
Niềm tin vào sự can thiệp như thế đã có từ rất lâu đời. Trong những huyền thoại xa xưa nhất của Ấn Độ, ta đã thấy có những chuyện tường thuật về việc thỉnh thoảng chư tiểu thần linh xuất hiện vào những lúc khủng hoảng trong sự vụ của con người; anh hùng ca của Hi Lạp cũng đầy dẫy những câu chuyện giống như thế, còn trong lịch sử của chính đế quốc La Mã ta cũng đọc thấy việc hai anh em sinh đôi trên trời là Castor và Pollux đã dẫn dắt những đạo binh của nước Cộng hòa non trẻ trong trận chiến ở Hồ Regillus. Vào thời trung cổ người ta có ghi lại việc thánh James đã dẫn dắt quân đội Tây Ban Nha đi tới chiến thắng, và có nhiều chuyện kể việc các thiên thần quan phòng cho những kẻ hành hương mộ đạo hoặc can thiệp vào đúng lúc để che chở cho y khỏi bị hại. Kẻ kiêu kỳ ắt bảo rằng: “Đây chỉ là một sự mê tín dị đoan của dân gian”; có lẽ là như vậy nhưng bất cứ khi nào chúng ta gặp một sự mê tín dị đoan của dân gian lan tràn phổ biến dai dẳng như thế thì hầu như chúng ta chắc chắn sẽ tìm thấy được một hạt nhân chân lý nào đó đằng sau điều này – nó thường là bị xuyên tạc và ngoa ngoắc, thế nhưng đó vẫn còn là sự thật. Và đây là trường hợp mà ta đang xét đến.
Hầu hết tôn giáo đều nói cho người ta biết có những thiên thần hộ mệnh sát cánh với con người vào lúc y đang buồn khổ và phiền não. Ki Tô giáo cũng không phải là ngoại lệ đối với thông lệ này. Nhưng khổ nỗi giáo hội Ki Tô lại chịu một tai họa do sự đảo lộn phi thường về sự thật vốn được gọi là phong trào Cải cách tôn giáo và trong cuộc đảo lộn đó rất nhiều điều đã mất đi đối với đa số chúng ta mà không hề thu hồi lại được. Quả thật là có những sự lam dụng khủng khiếp và trong giáo hội cần có sự cải cách; tôi đâu có chối bỏ điều đó, thế nhưng chắc chắn là phong trào Cải cách tôn giáo đã phê phán rất nghiệt ngã những tội lỗi có trước thời khai sinh ra nó. Cái gọi là Giáo hội Tin lành đã cám dỗ và làm u ám thế giới các tín đồ của mình vì trong đám nhiều điều sai trái kỳ quặc và u mê mà nó cố tình ra sức tuyên truyền thì có một thuyết theo đó không có thứ gì tồn tại để đóng vai trò trung gian giữa một bên là Đấng thiêng liêng và một bên là con người cách xa nhau một trời một vực. Nó diễn giảng cho ta cái quan niệm kỳ quặc về việc Đấng Cai trị vũ trụ thường xuyên bất thường can thiệp vào việc vận hành những định luật của chính mình dựa vào kết quả những nghị quyết của chính mình, và điều này thường thể theo sự nài nỉ của các thần dân mà xét theo biểu kiến được giả định là biết rõ hơn điều nào tốt cho bản thân so với Thượng Đế biết điều gì tốt cho thần dân. Nếu chúng ta mà đâm ra tin vào điều đó thì ta ắt không thể nào cởi bỏ ra được khỏi tâm trí mình cái ý tưởng cho rằng sự can thiệp như thế có thể và quả thật ắt phải là thiên vị và bất công. Trong Thông Thiên Học chúng ta không có tư tưởng nào như thế vì chúng ta tin tưởng vào sự tuyệt đối công bằng của Đấng thiêng liêng, do đó chúng ta thừa nhận rằng không thể có sự can thiệp nếu kẻ hữu quan không xứng đáng được trợ giúp như thế. Cho dù như vậy thì sự can thiệp cũng đến với y thông qua các tác nhân chứ không bao giờ có sự ra tay trực tiếp của Đấng thiêng liêng. Theo nghiên cứu và kinh nghiệm bản thân của nhiều người trong chúng tôi, chúng tôi biết rằng giữa trình độ con người và trình độ của Đấng thiêng liêng có nhiều trình độ trung gian. Niềm tin xưa cũ về các thiên thần và tổng thiên thần vốn được biện minh dựa vào các sự kiện, vì cũng như có đủ thứ giới bên dưới giới nhân loại, cũng vậy có những giới tiến hóa vượt trên giới nhân loại. Chúng ta thấy ngay trên chúng ta và giữ địa vị đối với chúng ta giống như đến lượt chúng ta giữ địa vị đối với giới động vật có một giới vĩ đại gồm các chư thiên hoặc thiên thần; bên trên các đấng này lại có một giới tiến hóa mà ta thường gọi là Dhyan Chohans hoặc tổng thiên thần (mặc dù hồng danh của các đẳng cấp này không quan trọng) và cứ tiến lên mãi cho tới tận chân của Đấng thiêng liêng. Tất cả đều là một sự sống được phân cấp từ Chính Thượng Đế xuống tới hạt bụi bên dưới chân ta, đó là một cái thang dài dằng dặc trong đó nhân loại chỉ chiếm có một nấc thang. Có nhiều nấc thang bên dưới và bên trên chúng ta, mỗi nấc thang đều đã bị chiếm chỗ hết. Quả thật chúng ta rất phi lý khi giả sử rằng mình cấu thành dạng phát triển cao nhất có thể được, tức là thành tựu tối hậu của cơ tiến hóa. Đôi khi giữa nhân quần có giáng lâm những con người tiến hóa hơn hẳn để cho ta thấy trình độ kế tiếp của mình và nêu gương cho ta noi theo. Những nhân vật như Đức Phật và Chúa Ki Tô cũng như nhiều bậc đạo sư thứ yếu khác đều phô bày trước mắt ta một lý tưởng cao cả mà ta có thể triển khai, cho dù ta thấy hiện nay mình còn lâu mới đạt đến mức đó.
Nếu sự can thiệp đặc biệt vào sự vụ của con người đôi khi cũng xảy ra thì phải chăng ta ắt coi giới thiên thần là các tác nhân có thể được dùng vào việc đó? Có lẽ đôi khi như vậy, nhưng rất hiếm hoi vì các đấng cao cả này cũng có việc riêng phải làm liên quan tới địa vị của các ngài trong sơ đồ tổng thể vạn hữu và các ngài cũng chẳng mấy khi để ý tới chúng ta nhằm can thiệp vào đó. Con người đã mặc nhiên cống cao ngã mạn quá độ khi có khuynh hướng nghĩ rằng mọi quyền năng vĩ đại trong vũ trụ phải chăm chăm vào y và sẵn sàng trợ giúp y bất cứ khi nào y đau khổ vì sự điên rồ hoặc vô minh của chính mình. Y quên rằng mình đâu xả thân đóng vai trò cứu trợ mang lại ích lợi cho các giới tiến hóa bên dưới mình hoặc chăm sóc và giúp đỡ những con thú hoang. Đôi khi y còn đóng vai trò ma quỉ chính thống đối với chúng, phá đám cuộc sống vô tội và vô hại của chúng bằng cách vô cớ hành hạ và tiêu diệt chúng chỉ để thỏa mãn cái lòng tham dục độc ác thoái hóa của mình mà y dám gọi là ‘môn thể thao’; đôi khi y giam cầm súc vật, bỏ ra chút ít công lao chăm sóc chúng nhưng chỉ cốt để chúng làm việc cho mình chứ nào có ngó ngàng gì tới sự tiến hóa của chúng. Thế thì làm sao y có thể trông mong được những đấng ở bên trên y có một sự quan phòng mà bản thân y còn lâu mới dành cho những sinh linh bên dưới mình? Rất có thể là giới thiên thần cứ cặm cụi làm việc của riêng mình mà chẳng buồn để ý gì tới chúng ta, cũng như ta chẳng thèm chú ý tới những con chim sẻ đậu trên cây. Thỉnh thoảng cũng có khi một thiên thần đâm ra biết được một sự đau khổ hoặc khó khăn nào đó của con người khiến cho vị đó động lòng thương hại và ra sức giúp đỡ chúng ta cũng giống như chúng ta ra sức giúp đỡ một con thú bị quẫn bách; nhưng chắc chắn là tầm nhìn rộng lớn của thiên thần sẽ nhận ra được sự thật là ở giai đoạn tiến hóa hiện nay trong đại đa số trường hợp thì sự can thiệp như thế ắt là hại nhiều hơn lợi. Trong quá khứ xa xưa, con người thường được các tác nhân phi nhân loại trợ giúp vì lúc bấy giờ trong đám nhân loại ấu trĩ của chúng ta chưa thể có ai vượt lên trở thành một bậc đạo sư; nhưng giờ đây khi chúng ta đã đạt tới sự trưởng thành thì giả sử rằng chúng ta đã đến giai đoạn mà ta có thể tự mình cung ứng những vị lãnh đạo và những người trợ giúp thuộc hàng ngũ nhân loại.
Có một giới khác trong Thiên nhiên mà ta ít biết tới đó là giới Tinh linh ngũ hành, tức thần tiên. Ở đây truyền thuyết dân gian lại bảo tồn được dấu vết về sự tồn tại của một đẳng cấp sinh linh mà khoa học chưa biết tới. Người ta đã gọi chúng bằng nhiều tên khác nhau: Tiên lùn, thổ địa, yêu tinh, quỉ lùn, thiên tinh, thủy thần, tiên ông v. v. . ., và có ít vùng nào mà kho truyện dân gian lại không có vai trò của thần tiên trong đó. Họ là những sinh linh có cơ thể hoặc là thể vía hoặc là thể phách, do đó chỉ trong những trường hợp hãn hữu đặc biệt thì con người mới thấy được họ. Họ thường tránh kề cận với con người vì họ không thích những cơn bộc phát dã man về dục vọng và đam mê của con người, do đó ta thường thấy họ ở một nơi chốn hẻo lánh nào đó, chỉ có những người dân sơn cước hoặc kẻ chăn chiên mà công việc khiến y phải xa lánh nơi phồn hoa đô hội thì mới có dịp thấy họ. Đôi khi có xảy ra việc một trong những sinh linh này gắn bó với một người nào đó và tận tụy phục vụ cho y như chuyện kể ở vùng cao nguyên Tô Cách Lan; nhưng theo thông lệ thì ta khó lòng mà trông mong có được sự trợ giúp thông minh của những thực thể thuộc hạng này.
Thế rồi còn có các vị cao đồ, các Chơn sư Minh triết vốn là những người giống như chúng ta song tiến hóa cao hơn chúng ta nhiều đến nỗi mà đối với ta các ngài dường như là các vị thần về quyền năng minh triết và lòng từ bi. Trọn cả cuộc đời các ngài được tận hiến cho công việc trợ giúp cơ tiến hóa; do đó phải chăng các ngài đôi khi cũng có thể can thiệp vào những sự vụ của con người? Cũng đôi khi thôi, nhưng chỉ rất hiếm hoi vì các ngài có những công việc khác cao cả hơn cần phải thực hiện. Kẻ vô minh đôi khi gợi ý rằng các Chơn sư nên xuống tận các đô thị lớn của chúng ta để giúp đỡ người nghèo khổ. Tôi xin nói rằng đó là kẻ vô minh vì chỉ có kẻ nào hết sức vô minh và cống cao ngã mạn không thể tưởng tượng được mới dám chỉ trích như thế về hành động của các đấng vô cùng minh triết và cao cả hơn bản thân y. Kẻ biết điều và khiêm tốn ắt nhận thức được rằng các ngài làm điều gì thì ắt phải có lý do chính đáng, và bản thân y mà chê trách các ngài thì đúng là đã đạt tới đỉnh cao của sự ngu ngốc và bội bạc. Các ngài có công việc riêng trên các cõi cao hơn hẳn so với mức mà ta có thể đạt tới được; các ngài giao tiếp trực tiếp với linh hồn của con người, tỏa sáng cho các linh hồn giống như ánh sáng mặt trời chiếu cho một đóa hoa, dắt dẫn linh hồn tiến lên mãi và mang lại quyền năng cũng như sự sống cho linh hồn; đó là một công trình vĩ đại hơn hẳn so với việc chữa trị chăm sóc hoặc nuôi dưỡng thể xác của con người, mặc dù việc này cũng có thể là tốt trong phạm vi của nó. Sử dụng các ngài để làm việc trên cõi trần ắt là việc phí phạm thần lực vô cùng lớn hơn việc bắt các nhà học giả lỗi lạc nhất về khoa học của chúng ta đi lao động đập đá để làm đường, lấy cớ đó là một việc lao động tay chân công ích trong khi công tác khoa học không trực tiếp có ích lợi cho người nghèo! Chơn sư ít có can thiệp vào việc của cõi trần vì ngài có thể được sử dụng hữu ích hơn nhiều nữa.
Charles Webster Leadbeater – Tâm Như dịch ( Theo chuabuuchau.com.vn )