MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương 1. Sống và Chết theo quan niệm của Phật giáo
Chương 2. Con người và những động vật khác trước khi sinh ra
Chương 3. Hiện tượng trước khi chết
Chương 4. Thân trung ấm
Chương 5. Tâm thức của người mất sau 49 ngày
Chương 6. Sống như thế nào và Chết sẽ đi về đâu?
Chương 7. Hiện tượng của những hồn ma
Chương 8. Cái chết có phải là một việc đáng sợ không?
Lời cuối sách
____________________________
LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ năm 1974, khi tôi còn ở tại Nhật Bản; cho đến nay năm 2014 đang ở tại Đức, đúng ra là 40 năm. Trong 40 năm ấy tôi đã sáng tác và dịch thuật tất cả là 63 tác phẩm. Đó là chưa kể những bản dịch của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc luận tập bộ toàn cũng có trên 3.000 trang đánh máy đã được đăng trên trang nhà Viên Giác, Quảng Đức và Hoa Vô Ưu. Ngoài ra cũng có trên 100 bài viết về đủ thể tài. Từ văn hóa đến giáo dục, từ Tôn giáo đến xã hội, từ tự truyện cho đến tường thuật v.v… kể ra cũng đầy đủ mọi đề tài. Như vậy chia ra cho mỗi năm trong 40 năm ấy, tôi sẽ có con số trung bình là một tác phẩm rưỡi của những tiêu đề trên. Có người hỏi rằng trong 63 tác phẩm ấy, tác phẩm nào Thầy thích nhất? thì đây là một câu hỏi khó trả lời. Vì lẽ nếu không thích, thì tôi đã không tạo ra một đứa con tinh thần cho mình như vậy. Cho nên mỗi quyển sách, mỗi tập truyện nó có một giá trị tinh thần đích thực của nó.
Năm 1974 lần đầu tiên tôi đặt bút dịch từ tiếng Việt sang tiếng Nhật quyển “Truyện cổ Việt Nam – tập I” của ông Nguyễn Đổng Chi. Lý do để tôi dịch truyện nầy, vì ông Thầy dạy thêm phần tiếng Nhật tại Đại Học Teikyo lúc bấy giờ muốn tôi giới thiệu văn hóa Việt Nam cho ông ta đọc và đó cũng là cách để ông ta kiểm điểm khả năng Nhật ngữ của tôi khi đang học Giáo Dục tại Đại Học nầy từ Semester thứ nhất đến Semester thứ tư. Thế là việc tự nhiên đã đến; nghĩa là tôi trở thành người dịch truyện cổ. Các báo chí Nhật Bản lúc bấy giờ đã đăng tin và nhiều ký giả đã tìm đến chùa Honryuji ở Hachioji thuộc Tokyo để phỏng vấn lấy tin và đăng báo. Tôi tự nhiên trở thành như vậy và cứ cầm bút mãi cho đến ngày nay.
Nhiều người bảo tôi là văn sĩ. Tôi chối từ. Bảo tôi là người viết tiểu thuyết. Tôi cũng chưa chấp nhận. Có kẻ cho tôi là dịch giả. Tôi cũng chưa thuận ý, mà tôi chỉ đơn thuần là một Tu Sĩ Phật Giáo đi làm nhiệm vụ chuyên chở chữ nghĩa cũng như văn chương đến với mọi người ở nhiều hình thức khác nhau, nhằm cung cấp cho ai đó, thích đọc hay xem thử tư tưởng Phật Học có gì mới lạ không? Và biết đâu trong số những độc giả ấy sẽ có một vài người hiểu được điều mình muốn truyền đạt đến. Thế là đủ rồi.
Có nhiều quyển sách nghiên cứu khó đọc, chứ chưa nói đến chuyện hiểu; cho nên nhiều người than: Tại sao lại phải như thế? Đời nay người ta chỉ muốn cái gì cho nhanh, gọn, mau hiểu. Còn cái gì đó bắt buộc phải suy nghĩ và tốn thì giờ; thôi thì cứ xếp sách để lại đó, lần sau sẽ tính. Đôi khi lần sau ấy, không bao giờ có dịp đến với người đọc khó tính kia nữa.
Cũng có lắm người đọc hết sách, nhưng sau khi gấp sách lại, hỏi rằng: Tác giả muốn nói gì trong sách ấy, lại trả lời chẳng thông. Có người đọc, chỉ để đọc mà thôi. Ngược lại cũng có lắm người thuộc lòng từng câu văn, từng lời đối đáp trong một quyển sách nào đó; khiến cho tác giả cũng chạnh lòng.
Đa phần nhiều người than rằng: sách dày quá lại khó hiểu. Do vậy quyển sách này tôi cố gắng viết cô đọng lại và mỏng hơn, không làm phiền người đọc sách nữa. Nếu cách đây gần 100 năm nhà văn nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu than rằng: Văn chương hạ giới rẻ như bèo; nên ông mới mang chữ nghĩa lên bán cho ông Trời và Trời cũng tự hỏi rằng:
Khách hà nhân giả
Cớ làm sao suồng sả dám đưa thơ?
Chốn Thiên Cung ai kén rể bao giờ
Chỉ những sự ngẩn ngơ mà giấy má
Chức Nữ tảo tùng giai tế giá
Hằng Nga bất nại bảo phu miên…
Còn ngày nay thì sao? có khác với 100 năm trước không? Câu trả lời xin để dành lại cho độc giả vậy.
Theo Khổng Tử của Trung Quốc ngày xưa, đời người chia ra làm nhiều giai đoạn của mỗi 10 năm; đến 60 tuổi là “Thuận nhĩ”. Nghĩa là mọi việc đều phải thuận theo tai mình nghe, mắt mình thấy, không cần phải đính chánh cũng không cần phải nông nổi để phê phán một vấn để gì. Năm nay tôi đã 65 tuổi tây và 66 tuổi ta, lại có 50 năm xuất gia hành đạo. Do vậy với tôi bây giờ không thương riêng ai mà cũng chẳng ghét riêng ai. Không buồn, không lo, không hờn, không giận; không vui, chẳng khổ. Đây là những nguyên tắc sống của tôi lúc tuổi về chiều. Có thể có người cho rằng đây là bi quan; nhưng với tôi, đây là cách tốt nhất để cho tâm mình an ổn.
Quyển sách nầy nhan đề là “Hiện tượng của Tử sinh”. Sinh và tử vốn là một hiện tượng; chứ không phải là sự có thật. Vì chết sống trong đời nầy chỉ là lần tiếp theo của những lần trước mà thôi. Chúng ta đã có không biết bao nhiêu lần chết đi và cũng đã có nhiều lần sống lại. Sống ở cõi nầy hay những cõi khác. Chết vốn là điều đáng nói, còn sống vốn là chuyện tự nhiên của cuộc đời. Khi được sinh ra đời, mọi vật đều phải sống. Có người sống đến 100 năm; nhưng cũng có nhiều người chết non khi mới vừa lọt lòng mẹ. Lại cũng có lắm kẻ phải sống cho qua một kiếp người. Vui, khổ, giàu, nghèo v.v… vốn đan tréo với nhau bởi nhiều mối dây ràng buộc của nhân quả, khó mà định nghĩa cho hết được.
Chết mới là sự bắt đầu; chứ không phải khi sinh ra là bắt đầu. Cũng giống như ngày chủ nhật mới là ngày đầu tuần; chứ đầu tuần không bắt đầu từ thứ hai. Trong các dân tộc ở Á Đông, người Nhật thể hiện rỏ nét nhất về cách gọi của bảy ngày trong tuần như sau:
Nichijobi = ngày chủ nhật = ngày của mặt trời
Getsujobi = ngày thứ hai = ngày của mặt trăng
Kajobi = ngày thứ ba = ngày của lửa
Suijobi = ngày thứ tư = ngày của nước
Mokkujobi = ngày thứ năm = ngày của cây
Kinjobi = ngày thứ sáu = ngày của vàng
Dozobi = ngày thứ bảy = ngày của đất
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là ngũ hành vận chuyển trong trời đất này bởi âm dương là mặt trời và mặt trăng. Đây là cách ứng dụng rất tuyệt vời văn học của Trung Quốc vào nền văn hóa của Nhật Bản. Trong khi đó chữ Hán xuất phát từ Trung Hoa mà họ không ứng dụng hoàn hảo vào cuộc sống tài tình như người Nhật, Họ gọi các ngày trong tuần là:
Shinchiru = Tinh kỳ nhật = ngày chủ nhật
Shinchii = Tinh kỳ nhất = ngày thứ hai
Shinchie = Tinh kỳ nhị = ngày thứ ba
Shinchisan = Tinh kỳ tam = ngày thứ tư
Shinchisi = Tinh kỳ tứ = ngày thứ năm
Shinchiu = Tinh kỳ ngũ = ngày thứ sáu
Shinchiru = Tinh kỳ lục = ngày thứ bảy
Thật ra cách gọi của Trung Hoa không rõ ràng bằng cách gọi của người Nhật. Từ đó chúng ta, người Việt Nam có thể tạo ra một cách riêng để gọi cho việc nầy, chắc cũng chẳng phải là điều quá đáng vậy.
Người Việt Nam chúng ta ngày xưa hay nhớ ngày giỗ kỵ của ông bà cha mẹ và những người thân thuộc trong gia đình nội ngoại kỹ càng hơn là ngày sinh ra của những thành viên trong gia đình. Vì lẽ người Việt Nam xem trọng cái chết, hơn là sự sống. Vì chết không phải là hết, mà chết mới chỉ là một sự bắt đầu. Do vậy những người con gái Việt Nam ngày xưa khi về nhà chồng, những điều căn bản nơi nhà chồng mà cô dâu cần phải biết; trong đó có vấn đề lo nhớ ngày giỗ quảy trong gia đình chồng. Có thể chính ngày sinh của cô dâu ấy và ngay cả cha mẹ sinh ra cô ta nữa, cô ta cũng chẳng nhớ; nhưng điều bắt buộc phải nhớ là những ngày giỗ của nhà chồng, chứ chẳng phải bên nhà cha mẹ sinh ra mình.
Ở Việt Nam thuở xa xưa, người ta không tổ chức ăn mừng sinh nhật, dầu cho người ấy có tuổi thọ là bao nhiêu đi chăng nữa, mà chỉ chú mục vào đám giỗ và đám tang của một người thân. Lý do như bên trên đã trình bày. Người Việt Nam chúng ta cũng có hai loại tuổi. Một loại tuổi Tây, tính theo ngày sinh, giống như Tây phương. Một loại tuổi khác, gọi là tuổi Ta. Tuổi nầy tính theo âm lịch. Cứ mỗi cái Tết âm lịch đến, đều tính một tuổi. Vì lẽ chín tháng mười ngày thai nhi được cưu mang trong bào thai của người mẹ cũng đã là một tuổi khởi đầu của cuộc sống mới rồi. Do vậy người Việt Nam gọi tuổi Ta là vậy. Tuổi nầy cũng là tuổi của Phật Giáo nữa. Vì lẽ một chúng sinh theo Phật Giáo không phải được khởi sự chỉ lúc mới được sinh ra, mà chúng sanh ấy được bắt đầu qua sự tác ý của cha mẹ và sự hiện hữu của một tâm thức và việc hội đủ nhân duyên để cho một chúng sanh thành tựu. Do vậy sự sống manh nha từ tư tưởng hội ngộ của ba nguồn dữ liệu ấy. Nếu thiếu một trong hai hay trong ba điều kiện trên, thì một chúng sanh không thể thành hình.
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó; nhưng nó không thật. Vì sự sống chết chỉ là một hiện tượng. Đã là một hiện tượng thì thực tướng của nó là không và cái không nầy đã bị vô thường cũng như khổ chi phối. Ai hiểu được điều nầy thì sẽ hiểu được Đạo Phật. Giáo lý của Đức Phật không phải khó hiểu, để cho chúng ta phải đóng khung vào đó, rồi tự nhủ rằng: mình không thể bước ra khỏi sự nhọc nhằn kia. Điều khác nhau giữa một con người tỉnh thức giác ngộ và một người chưa tỉnh thức là biết đúng thời, đúng lúc và chưa biết đúng sự thật mà thôi. Khi chúng ta nhìn thế gian nầy với con mắt nhị nguyên, thì rõ ràng rằng cái gì cũng có đấy chứ! nhưng khi nhìn kỹ lại thì cái có ấy bị chi phối bởi vô thường; nên căn bản của nó là không thật có. Đã không thật có thì đau khổ hay sầu muộn theo đó để làm gì?
Khi đã rõ lối đi về như vậy rồi thì người Phật Tử chúng ta không sợ chết nữa, mà chết chỉ là một khoảnh khắc để thay đổi chiếc áo nghiệp lực mà lâu nay chúng ta đã mặc vào, bây giờ chúng ta chỉ cần chọn một chiếc áo khác để thay đổi hành trình sanh tử của chúng ta mà thôi.
Nhiều người khi cha mẹ, anh chị em qua đời rất buồn khổ; nhưng họ quên rằng: Trong chính thân tâm ta cũng đang mang sự hiện hữu của cha mẹ và anh em cùng huyết thống mà. Trong bản thân hiện hữu của chúng ta, vẫn có sự tồn tại của cha mẹ. Do đó ta đâu có mất cha hay mất mẹ. Tất cả chỉ là một sự luân lưu, một sự hoán chuyển; nhưng chúng ta chưa và không quán triệt đấy thôi.
Tôi mong rằng với tác phẩm nhỏ nầy sẽ giúp cho người Phật Tử chúng ta rõ được chốn đi về của tử sinh, để từ đo chúng ta không sợ chúng và chúng ta sẽ làm chủ những hiện tượng nầy, để cho cuộc đời của chúng ta bớt khổ và có ý nghĩa thực tiễn nhiều hơn.
Mong rằng tất cả chúng ta đều có được một ý niệm vững vàng như vậy để cuộc sống của ta mang theo được nhiều ý nghĩa hơn.
Tác giả: Thích Như Điển
____________________________
CHƯƠNG 1. SỐNG VÀ CHẾT THEO QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO
Trước khi đạo Phật ra đời, đã có nhiều đạo khác hiện hữu trên thế gian nầy. Ví dụ như Ấn Độ Giáo và Khổng Giáo chẳng hạn. Trước những Đạo nầy xuất hiện còn có Đạo thờ các Thần núi, Thần sông, Thần cây, Thần sấm sét v.v… Nghĩa là khi con người lúc còn sống đơn giản với thiên nhiên, với tư cách như là dân du mục, họ chưa có văn hóa nhiều và nền văn minh chưa phát triển; họ cũng phải sống và phải chết; nhưng họ cũng phải tìm nơi tinh thần để nương tựa vào một đấng tối cao nào đó, khiến họ mới an tâm. Vì lẽ sau họ, còn có không biết bao nhiêu người thân của họ cũng phải bước theo con đường ấy nữa.
Khi khả năng của con người còn giới hạn, chưa chinh phục được thiên nhiên qua khả năng tự có của mình, thì họ hay tin vào những điều gì có thể tin được, cốt để an ủi người thân hay chính họ khi bị đau yếu hoặc giả lâm chung. Đây là một đề tài rất lớn trong cuộc đời; nhưng nó cũng rất nhỏ so với cuộc sống đơn sơ của con người cách đây cả hằng triệu triệu năm về trước. Họ cũng đau khổ, cũng hy vọng, cũng muốn có một nơi để nương tựa vào; nhưng thời gian ấy phải trải qua hằng nhiều năm tháng; chỉ đến khi con người có đời sống định cư hẳn hoi thì các Đạo giáo mới ổn định và từ đó các Tôn Giáo mới thiết lập tư tưởng của mình về hai sự kiện quan trọng trong cuộc đời. Đó là sống và chết.
Việc gần chúng ta nhất thì cũng đã trên dưới 5.000 năm rồi. Làm thế nào để chúng ta có thể tìm lại được quan niệm của việc sống chết nầy của con người vào một thuở xa xưa ấy? Nhưng cái chết có đáng sợ không? Ngày nay xem lại một số phim ảnh hoạt họa ghi lại đời sống của người tiền sử, chúng ta thấy họ vẫn có cách sống riêng của mình trong từng bộ tộc một và mỗi bộ tộc như thế đều có một cách riêng cho vấn đề nầy. Đến khi Ấn Độ Giáo có mặt tại Ấn Độ, Khổng Giáo có mặt tại Trung Hoa thì mọi lễ nghi, tư tưởng mới được hình thành một cách rõ ràng.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Giáo chủ của Phật Giáo. Người cũng đã từ những Đạo thờ Thần khác, chính thức bước ra khỏi những tư tưởng đương thời, để tìm cho mình và hậu thế một con đường mới và con đường ấy giờ nầy đã có mặt khắp nơi trên quả địa cầu nầy. Tuy cũng là một Đạo Phật ở Trung Quốc; Đạo Phật của Trung Quốc khác với Đạo Phật ở Việt Nam và Nhật Bản. Ngày nay Đạo Phật đã có mặt tại các xứ Âu Mỹ nầy lại càng khác xa Đạo Phật nguyên thủy có từ thời Đức Phật. Bởi lẽ trước khi Đạo Phật du nhập vào các xứ nầy; tại chính những bản địa ấy đã có những Đạo thờ ông bà, tổ tiên hay ngay cả Đạo Thiên Chúa hay Hồi Giáo. Do vậy Đạo Phật phải thích nghi để tồn tại và phát triển tại các xứ nầy; nên phải hội nhập như thế.
Tại Tây Tạng có Đạo Bon, trước khi Phật Giáo được du nhập vào và ngày nay trong các buổi tế lễ cầu nguyện của Kim Cang Thừa, Phật Giáo Tây Tạng vẫn còn bị ảnh hưởng của Đạo Bon không ít. Ví dụ như thần Bổn Mạng của mỗi Đức Đạt Lai Lạt Ma. Mỗi khi có vấn đề trọng đại gì của quốc gia, các vị Đại Thần và các vị Đại Sư đều phải cầu nguyện với vị Thần bổn mạng nầy để được soi sáng những việc cần phải làm trong thời gian kế tiếp. Việc nầy nó tương tự như đồng cốt ở Việt Nam. Thế nhưng Đạo Phật tại đó vẫn còn có thể chấp nhận được. Vì lẽ trong cái nầy có cái kia và trong cái kia lại có cái nầy.
Ở Trung Quốc, khi Phật Giáo mới được du nhập vào, tại đây đã có Đạo Khổng, Đạo Lão; vốn là những nguồn đạo tôn trọng Tam Cương Ngũ Thường và Tam Tòng Tứ Đức. Cho nên nhiều vị Tổ Sư của Phật Giáo tại Trung Hoa đã không loại bỏ tư tưởng sống chung để tồn tại và phát triển đó. Ví dụ như Ngài Shantao (Thiện Đạo), Tổ thứ 3 của Tịnh Độ Tông của Trung Quốc đã cho vào một trong những điều kiện để được vãng sanh về Tịnh Độ là phải có hiếu với Cha Mẹ và Thầy Tổ. Việc nầy vốn dĩ trong kinh điển nguyên thủy hầu như ít thấy đề cập đến.
Hoặc giả ở Nhật Bản, Phật Giáo đã có mặt ở đây từ thế kỷ thứ sáu. Trước đó họ đã thờ Shinto (Thần Đạo) vốn là một đạo tôn sùng các bậc quân vương. Sau khi băng hà, những ông vua nầy trở thành Thần và vẫn ngự trị trong quốc gia của họ. Cho nên nhiều người Phật tử Nhật ngày nay khi vào chùa lẽ ra họ chỉ chắp tay đảnh lễ Phật và chư vị Bồ Tát là đủ. Thế nhưng nhiều người Phật tử vẫn vỗ vào hai tay mình 3 tiếng thật lớn, đoạn mới chắp hai tay lại và sau đó mới cầu nguyện. Hoặc giả họ hơ khói nhang đang cháy để áp vào bụng, vào đầu. Những tục lệ như thế trong Phật Giáo không có; nhưng ngày nay vẫn còn tồn tại ở rất nhiều chùa Nhật Bản. Nhiều người Phật tử Nhật vẫn tin rằng: Phật là Thần, Thần là Phật.
Việt Nam chúng ta cũng không kém gì về phong tục của những nước đã nêu trên; nhất là những ngôi chùa ở miền Bắc. Trong chánh điện chùa vẫn thờ Phật và các vị Bồ Tát; nhưng gian bên cạnh đó hay một nơi biệt lập ở ngoài vườn chùa đều có những miểu để lên Đồng. Đồng cốt vốn là tín ngưỡng của dân gian, không phải của Phật Giáo; nhưng cả trên dưới 2.000 năm nay khi Phật Giáo đã có mặt tại Việt Nam, bản thân Phật Giáo cũng đã chẳng loại bỏ được hoàn toàn những tín ngưỡng nhân gian nầy. Vả chăng Phật Giáo yếu thế, hay Phật Giáo không muốn độc tôn? hoặc giả muốn “Dĩ hòa vi quý”? Tất cả những câu trả lời đều có thể, không khẳng định mà cũng chẳng phủ định. Điều nầy không có gì lạ. Vì Phật Giáo vốn là một tôn giáo lấy sự Từ Bi, lợi tha làm bổn nguyện trong khi mang Đạo vào Đời. Do vậy hòa mình vào và hiện thân ở nhiều khía cạnh khác nhau trong đời thường; vốn dĩ cũng là hạnh nguyện của chư Phật và chư Bồ Tát khi vào đời để cứu khổ độ mê. Cho nên tâm Bồ Tát là tâm Bồ Đề và Bồ Đề ấy sẽ mang con người vào nền Đạo đến chỗ cao cả rốt ráo hơn. Có như thế Đạo Phật mới có thể tồn tại trong dòng sinh mệnh của dân tộc trong suốt cả mấy ngàn năm lịch sử được.
Rồi ngày nay Đạo Phật đã có mặt khắp nơi trên các xứ Âu Mỹ. Trước khi họ đến với Đạo Phật, các Phật tử nầy đã theo Cơ Đốc giáo hay Thông Thiên Học hoặc Chính Thống giáo. Những tôn giáo nầy vốn là những Tôn Giáo độc thần và tính mệnh của tín đồ của các Tôn giáo nầy đều sẵn sàn an bài dưới sự thưởng phạt của Đức Chúa duy nhất qua tội phước của mỗi người. Nếu họ có theo Đạo Phật, họ vẫn đứng trên nhân sinh quan của các Tôn Giáo nầy để nhận định Phật Giáo. Do vậy có một số các bậc Đại Sư như: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài Tuyên Hóa và Thiền Sư Nhất Hạnh, vì muốn cho Đạo Phật hiện hữu trên những phần đất của thế giới còn lại nầy; nên họ vô hình chung đã chấp nhận những người nầy vừa là Phật tử mà cũng vừa là một tín đồ ngoan đạo của họ đang theo. Dĩ nhiên khi đi xa hơn và sâu hơn vào Đạo Phật thì phải phát bồ đề tâm và thọ trì những giới cấm của Phật chế. Lúc ấy họ phải tự chọn con đường họ phải theo. Có lẽ lúc đó họ phải biết cái nào quan trọng với Đức Tin của họ nhiều hơn và có thể giúp cho họ thăng hoa vào cuộc sống tâm linh của mình, thì họ sẽ nương vào đối tượng ấy để tu tập và hành trì.
Sau đúng 50 năm (1964-2014) xuất gia hành đạo và 42 năm (1972-2014) sinh hoạt Phật sự tại ngoại quốc; từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, Úc và Phi Châu, riêng tôi có một nhận xét cũng như một cái nhìn hơi khác về sự tồn tại cũng như phát triển Phật Giáo tại các xứ nầy như sau:
Nếu ví Thiên Chúa giáo giống như một bông hoa hồng. Tin Lành như một hoa cẩm chướng; Chính Thống giáo, Do Thái giáo và ngay cả Hồi Giáo là những bông hoa vạn thọ, hoa thược dược hay hoa bưởi v.v… thì Phật Giáo là hoa sen. Chúng ta sẽ trồng tất cả những cây hoa ấy vào trong một vườn hoa tâm linh tại đây. Vào một ngày nào đó, chúng sẽ được nở ra những bông hoa tươi thắm nhiệm mầu, hương thơm bay khắp đó đây. Như vậy há không đẹp mắt hay sao? Nếu trong một vườn hoa tâm linh chỉ có một loài hoa độc nhất trổ bông, thì trông ra cũng buồn thảm lắm. Cũng trong vườn hoa ấy nếu có nhiều loài hoa đang đua nhau khoe sắc thắm, phải chăng có đẹp đẽ hơn nhiều? Dĩ nhiên là hoa nào tự giữ gìn bản sắc loài hoa của mình và cùng nhau khoe sắc màu trong một khung cảnh tự do, tự tại thì người ngoài nhìn vào sẽ thích thú hơn. Đây là chủ trương cá thể của tôi. Có nhiều người không đồng ý. Nhưng đây cũng chỉ là một cách nhìn trong nhiều cách nhìn khác trên cánh đồng tâm linh của mọi Tôn Giáo mà thôi.
Nếu hỏi ngày nay trên thế giới nầy có bao nhiêu Tôn Giáo đang tồn tại và bao nhiêu Tôn Giáo đã trôi vào dĩ vãng? Câu trả lời chắc khó khẳng định được. Tuy nhiên Tôn Giáo nào hợp với lòng người thì Tôn Giáo ấy sẽ tồn tại lâu hơn trên quả đất nầy. Thế giới ngày nay vẫn còn ngự trị của nhiều Tôn Giáo theo thời gian như sau:
1) Ấn Độ giáo có mặt tại Ấn Độ 5.000 năm
2) Khổng và Lão giáo có mặt tại Trung Hoa trên 2.600 năm
3) Phật Giáo có mặt tại Ấn Độ gần 2.600 năm
4) Do Thái giáo có mặt tại Israel trên 2.000 năm
5) Thiên Chúa giáo có mặt tại Âu Châu cũng trên dưới 2.000 năm lịch sử
6) Hồi Giáo có mặt tại Trung Đông 1.600 năm
Nếu chúng ta sắp theo thứ tự số tín đồ theo Tôn giáo ấy thì sẽ trở thành như sau:
1) Thiên Chúa giáo có trên 1 tỷ tín đồ.
2) Ấn Độ giáo gần 1 tỷ tín đồ.
3) Hồi Giáo gần 800.000.000 tín đồ.
4) Phật Giáo 600.000.000 tín đồ (chưa kể những tín đồ tại Trung Hoa lục địa).
5) Do Thái giáo độ 300.000.000 tín đồ.
6) Khổng giáo và Lão giáo chỉ còn hiện hữu tại Trung Quốc và những nước có người Hoa sinh sống; nhưng vì Tôn gíáo nầy không có Tăng sĩ truyền thừa. Do vậy sự tồn tại và phát triển khó bề lý giải được.
Như vậy chúng ta sẽ căn cứ vào đâu để biết rằng: Tôn giáo ấy mạnh hay yếu? có hợp với Tín đồ hay không và còn hợp thời nữa không?
Nhìn vào quá khứ để biết hiện tại và tương lai. Có những Tôn giáo ra đời rất là đông đảo người theo; nhưng dần dà số tín đồ không còn bao nhiêu nữa. Vì tín lý không vững; do vậy đức tin của tín đồ bị bào mòn và khó tồn tại qua thời gian năm tháng được. Ngược lại có những Tôn giáo mới phát triển; nhưng có số tín đồ theo rất đông. Vì lẽ Tôn giáo nầy có nhiều phương tiện để triển khai niềm tin đi vào cuộc sống. Họ giúp nhau để tự tồn và thăng hoa cuộc sống tâm linh cũng như vật chất. Theo dõi, han hỏi, góp ý về nhiều lĩnh vực khác nhau, khiến cho Tín đồ của Tôn giáo ấy vững được và từ đó họ theo đạo cũng như phát triển đạo.
Ngược lại có một số Tôn giáo khác thiếu hẳn phần chăm sóc về tâm linh cho tín đồ; nên số người theo đạo càng ngày càng giảm đi và họ đã tìm đến những Tôn giáo khác hợp với cơ duyên của họ (xem sự phát triển Tôn giáo ở Đại Hàn thì rõ); nhằm giải quyết vấn đề thời gian, hoàn cảnh sống và ngay cả đức tin của những người nầy.
Nhưng thế nào là một tôn giáo?
Một Tôn giáo phải đầy đủ ba hay nhiều hơn những điều kiện như sau:
1) Giáo chủ
2) Giáo lý
3) Giáo hội
Nếu một Tôn giáo không còn đầy đủ 3 yếu tố nầy, thì không còn gọi là một Tôn giáo nữa. Bây giờ thì chúng ta đã yên tâm chỉ để đi vào lãnh vực sống và chết theo quan niệm của Phật Giáo mà thôi.
Tục ngữ Âu Châu có câu: “Khi tôi sinh ra trong cuộc đời nầy bằng những tiếng khóc chào đời, thì mọi người chung quanh tôi đều cười để đón mừng sự ra đời của tôi. Rồi suốt trong khoảng thời gian tôi sống trên cõi đời nầy, có thể là 30, 50 hay những đến 100 năm đi nữa, tôi phải làm một cái gì đó cho thật có ý nghĩa, để rồi một ngày nào đó tôi phải ra đi, mỉm cười buông xuôi hai tay về nơi chín suối, để mọi người chung quanh tôi đều khóc”. Cuộc đời bắt đầu bằng tiếng khóc và nụ cười và kết quả cũng bằng nụ cười và tiếng khóc. Nếu có khác chăng, chỉ là nhân vật chính trong câu chuyện bị đổi vai mà thôi. Nguyễn Công Trứ ngày xưa đã có viết trong bài “Chữ Nhàn” rằng:
… Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe
Trần có vui sao chẳng cười khì
Khi hỷ lạc, khi ái dục, khi sầu bi
Chứa chi lắm một bầu nhân dục
Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn
. . .
Đó là quan niệm của Nho gia vào một thuở xa xưa trên quê hương đất Việt mình. Còn Phật Giáo thì sao ?
… Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy
Kiếp phù sanh trông thấy mà đau…
Đạo Khổng thì cho rằng:
“Nhân sinh thất thập cổ lai hy”
Như vậy thì đúng, sai hay tốt xấu theo quan niệm của từng Tôn giáo một, vẫn là những điều cần phải đề cập đến nhiều hơn, để làm rõ cho vấn đề sống chết cho mỗi tự thân của chúng ta.
Sống là một động từ dùng để chỉ cho con người, động vật và những sự vật còn chuyển động; nghĩa là chưa chết. Con người còn hơi thở ra vào, còn đi, còn đứng, còn trò chuyện, còn hiểu biết… đấy gọi là sống. Còn chết có nghĩa là tim ngừng đập, mũi không còn hít thở không khí của đất trời nữa. Mọi sự đều ngưng đọng; nhưng tâm thức vẫn hoạt động. Con người khi còn sống làm đủ nghề nghiệp để nuôi thân, thực hiện nhiều động tác khác nhau để bảo vệ cho sự sống của mình. Khi hơi thở không còn vào ra ở buồng phổi nữa. Điều ấy có nghĩa là sự chết đã gọi mời.
Cây cỏ sống thì xanh tươi, hấp thụ phân, nước và không khí để tồn tại. Rồi một ngày nào đó cây cỏ cũng phải chết qua cái nóng thiêu đốt của mùa hè hay cái băng giá của đông sang; nhưng trong sự chết ấy cũng tồn tại những sự sống khác nữa. Đó là những nhân tố, mầm mống, hạt giống của cỏ cây khi còn sống đã để lại. Điều nầy cũng giống như con cá Hồi sau khi đẻ trứng xong, lại tự mình lội ngược dòng nước để chết, như là một sự về nguồn của loài thủy tộc nầy.
Con bò, con heo, con kiến, con vi trùng v.v… mỗi loại, cũng đều có sự sống riêng của nó và mỗi con khi chết cũng có mỗi hoàn cảnh khác nhau; chứ không hẳn đã giống nhau. Ví dụ con cọp, beo, cá mập, cá sấu. Chúng sống vì ăn thịt những loài động vật khác. Chắc chắn một điều là những động vật khác rất khổ sở với những loài răng nhọn nầy. Khi chúng chết, hầu như ít có loài động vật nào giết nó, ngoại trừ con người, hầu như nó tự biết; rồi cái chết ấy sẽ chết dần theo nhiều sự chết khác để cho các động vật và những thực vật ấy càng ngày càng khan hiếm hơn trên quả địa cầu nầy; trong khi đó loài người càng sanh ra nhiều hơn và thực phẩm càng trở nên khan hiếm trầm trọng. Mỗi ngày trên quả địa cầu nầy có cả hàng vạn đứa trẻ được sinh ra và cũng có hàng ngàn trẻ em đã thiếu dinh dưỡng như thực phẩm; nên đã đi vào chỗ chết chóc, kết liễu sinh mạng của mình khi tuổi đời còn quá nhỏ.
Nhà Bác học Pascal há đã chẳng nói: “Con người là một cây sậy; nhưng cây sậy có lý tưởng”. Hay nói chính xác hơn: “Con người là một động vật; nhưng động vật nầy có tánh linh cao hơn những động vật khác”. Điều ấy hẳn đúng, không cần phải chối cãi vào đâu được. Vì con người tạo ra cái ách để đeo vào cổ bò để con bò đi cày; chứ con bò không tạo ra cái ách cho con người được. Từ cỗ xe bò đơn sơ ấy, con người đã tạo ra xe kéo, rồi xe máy, rồi máy bay, rồi phản lực v.v… Không biết rồi đây trong tương lai sẽ còn gì nữa; nhưng vấn đề căn bản vẫn là sự thăng hoa của ý thức. Nhờ đó mà con người càng ngày càng có nhiều phương tiện hơn; đồng thời con người cũng tự giết lại mình nhiều hơn khi trên quả đất nầy có quá nhiều khí thải CO2 (Oxy Carbonic). O2 (Oxy) càng ngày càng thiếu, quả đất này sẽ trở nên bệnh hoạn. Bầu trời xám xịt nhiều hơn, không còn màu xanh như những thuở xa xưa nữa. Quả là khổ; nhưng con người đã bị cái khổ và cái sung sướng tiện nghi vật chất kia nó trói buộc bằng nhiều sợi dây vô hình, chưa có khả năng thoát xác được.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Hùm chết để da, người ta chết để tiếng”. Câu nầy có thể hiểu cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nghĩa là da hùm beo rất tốt, sau khi chết vẫn còn dùng được và con người khi chết đi, tiếng tốt xấu vẫn còn truyền lại nơi đời. Cho nên làm gì thì làm, chúng ta phải xem trọng chữ tín và đức tin vào một Tôn giáo, để cho tiếng tốt hay ngay cả tiếng xấu; nó chỉ là một chuyện bình thường trên thế gian nầy; chứ không phải là chuyện thị phi của nhân thế, để sau khi chết, vẫn còn là đề tài cho thiên hạ luận bàn. Mọi việc, mọi vật trong đời nầy cũng sẽ chìm sâu vào dĩ vãng. Nó cũng giống như những thành phố bị các trận đại hồng thủy của những thời kỳ xa xưa cũ, nhấn chìm vào lòng đại dương. Chúng cũng giống như những ngọn núi lửa; tuy trong hiện tại đang ngưng hoạt động; nhưng bên trong vẫn còn đang sôi sùng sục để chờ ngày tái hoạt động ở một hình thức khác. Quả thật cuộc đời nầy, có nhiều mặt và muôn vạn lối đi về; chứ không phải chỉ có hai lối sống riêng biệt của bên phải hay bên trái mà thôi. Rồi đây sẽ có xe hơi tự động bay lên cao đế tránh việc xe bị ùn tắt. Ăn uống sẽ được Robot gọi mời. Cung trăng đang chờ ta dừng bước và xa hơn nữa, ở những cõi xa xăm khác đang chờ đợi gọi mời.
Tôi không sợ chết; nhưng vừa rồi cũng đã đi ra Chưởng Khế để chứng nhận cho những nguyện vọng của mình và sau đó những di chúc kia được niêm phong tại Tòa án Hannover, để một ngày nào đó nhất định, tôi cũng phải ra đi, các đệ tử hãy y cứ vào đó thực hành thì có thể tránh những phiền não cho người sống cũng như kẻ chết về sau nầy. Ngày xưa các vị Tổ Sư từ Ấn Độ đến Trung Hoa rồi sang Việt Nam, Đại Hàn và Nhật Bản các Ngài chỉ truyền có một tâm. Đó là mạng mạch của Phật Pháp. Còn ngày nay qua hơn mấy ngàn năm của lịch sử, Phật giáo đã biến thiên quá nhiều nên tôi đã thể hiện bằng nhiều việc sau đây.
Di Chúc thứ nhất về bản thân của tôi khi bịnh hoạn. Nếu những ngày cuối đời mà Bác sĩ hay Hội đồng y khoa bảo rằng: người nầy nếu muốn sống phải nương vào ống chuyền hơi thở cũng như thức ăn ký sinh, thì lúc ấy tôi sẽ tự quyết định sự sống của mình, theo Di chúc đã ký tên sẵn, để cho đệ tử xuất gia cũng như tại gia không khó xử về sau nầy.
Di Chúc thứ hai liên quan về vấn đề tài sản, tiền bạc của cải. Tất cả những bảo hiểm và của cải của tôi đang có, đều là của Tam Bảo; gia đình, thân nhân và ngay cả đệ tử của tôi không được chia phần, mà hãy làm theo di chúc như đã được niêm phong tại Tòa án Hannover.
Cả hai phần di chúc nầy đều có sự quan hoài của Chưởng Khế và Tòa án.
Riêng phần di chúc thứ ba có liên quan đến vấn đề tinh thần. Đó là việc truyền thừa Trụ Trì của Tổ Đình Viên Giác thì luật sư và tòa án chỉ ghi nhận những gì mà tôi đã ghi rõ trong di chúc; chứ họ không có quyền trong lãnh vực nầy. Đây là những điều căn bản mà nội dung của những bản di chúc đã được chính tay tôi viết và được Chưởng Khế thừa nhận cũng như Tòa án Hannover lưu giữ.
Tại sao tôi phải làm điều nầy? Vì lẽ tôi đang ở Đức; cho nên phải sống theo luật pháp của Đức và ứng dụng luật pháp của Đức vào đời sống của mình; nên tôi đã chấp nhận những việc làm trên như là một sự tự nhiên và không ai có quyền ép buộc cá nhân cũng như những tư duy của tôi cả.
Sống suốt gần nửa thế kỷ ở ngoại quốc, tôi đã dõi theo không biết bao nhiêu cái chết ở trong cũng như ngoài nuớc; cả người trong Đạo lẫn kẻ ngoài Đời, tôi nhận thấy cần phải làm việc nầy để cho người kế thừa khỏi gặp khó khăn về vấn đề hành chánh; còn người mất đã vui khi tử sinh không có gì để chi phối được nữa, thì có gì để phải lo cho nhọc nhằn.
Trời có lúc nắng, lúc mưa, lúc đẹp, lúc xấu và tâm con người cũng có lắm lúc đổi thay. Mới ngày nào đó là bạn thân chí thiết; nhưng bỗng dưng đã trở thành lạnh nhạt khó lường, cũng chỉ vì một quyền lợi nào đó mà thôi. Thầy trò, tử đệ là những người có nhân duyên với nhau trong nhiều đời, nhiều kiếp; nên bây giờ mới trở thành Sư Phụ và Đệ Tử. Sự sinh hoạt nhịp nhàng ấy tưởng chừng như chúng có thể kéo dài đến vô tận; nhưng bỗng một hôm có tin sét đánh là người Đệ Tử ấy không muốn tiếp tục con đường tu. Lúc ấy Sư Phụ sẽ ra sao? Nếu tất cả đều hy vọng vào người Đệ Tử cho một tương lai gần kề?
Vợ chồng, hai người đầu ấp tay gối với nhau cho đến khi tóc bạc răng long; bỗng một hôm người chồng nhận được đơn xin ly dị từ tòa án gởi về nhà, chỉ vỉ tiếng ngáy to của chồng, mà người vợ chẳng ngủ được.
Có nhiều câu chuyện rất đơn giản; nhưng những cái chấp thủ của mỗi người quá nguyên tắc; nên đã phải ly dị nhau, chỉ vì một sự việc vô cớ. Mới đây ở Đài Loan có một cặp vợ chồng sống với nhau hằng mấy chục năm rất hạnh phúc; nhưng đã đưa đơn ra tòa ly dị; chỉ vì một lý do đơn giản về một quả táo.
Chồng bảo rằng: Ngày nay táo bị thuốc hóa học rất nhiều, hãy gọt bỏ vỏ trước khi ăn.
Vợ cãi lại: Chính vỏ táo mới chứa sinh tố C, ăn vào mới bổ dưỡng cho cơ thể. Tại sao lại bỏ đi.
Câu chuyện chỉ có thế và có không biết bao nhiêu phương pháp để có thể giải quyết, mà cả chồng và vợ đều có thể ăn được quả táo kia theo ý nghĩ của mình. Ở đây thì ngược lại, họ đã cố tình ly dị. Vì giọt nước cuối cùng đã đầy ly; khiến cho tình nghĩa vợ chồng đã trở thành người dưng nước lã; đôi khi lại còn trở thành kẻ thù không đội trời chung.
Từ Vua quan, Thủ tướng, Tổng thống, Chủ tịch cho đến thứ dân. Mỗi một tầng lớp trong xã hội lại có một hay nhiều vấn đề khác nhau; chẳng ai giống ai cả. Cuối cùng rồi chỉ vì cái chấp thủ của mỗi người mà thôi; nhưng trên thực tế cái nầy nó không hiện hữu.Nó giống như một loại quyền lực của Thành Cát Tư Hãn, của Hitler, của những ông hoàng Ả Rập, bà chúa Âu Châu. Nó có đó rồi mất đó, đâu có ai mang nó theo nơi huyệt mộ để biện minh giúp mình khi đối diện với Diêm Vương ở cõi vô hình đâu?
Nếu đời là thật; cuộc sống nầy trường cửu thì đã không có những trận Harican tầy trời, đã không có những trận Tsunami cuốn hút đi không biết bao nhiêu vạn sinh linh tại Nhật Bản vào ngày 11.3.2011 vừa qua, cũng như bạo lực đã xảy ra tại New York vào ngày 11.9.2001. Hoặc giả nước nầy thôn tính nước kia cũng chỉ vì một mối lợi. Rồi máy bay mất tích, con người lo âu, sợ hãi vô cớ cho mọi vấn đề trong cuộc sống hằng ngày. Vậy ở đâu là chốn an bình trong khi sống hay lúc chết? Đây là một câu hỏi rất lớn, đại diện cho sinh tử, chỉ có các Tôn giáo mới có thể trả lời một cách dứt khoát mà thôi.
Có nhiều bạn trẻ bây giờ nói rằng: Tôi không cần đến Tôn giáo nào cả. Điều ấy hẳn cũng đúng mà cũng sai. Có người nào đó khi mạnh khỏe lại bị hỏi rằng: Anh có cần nhà thương hay thuốc Aspirin chăng? Chắc chắn sẽ được anh ta trả lời rằng: KHÔNG. Vì lẽ anh ta đâu có đau đầu mà uống thuốc Aspirin. Vả lại đang lúc mạnh khỏe thì cần nhà thương để làm gì? Nhưng trong chúng ta mấy ai lại dám nói rằng: Chúng ta sẽ không bao giờ cần đến những thứ nầy.
Tôn giáo sẽ giúp cho bạn có một niềm tin, một sự sống thật là tràn đầy ý nghĩa, để đến khi chết, bạn sẽ không ân hận là tại sao cuộc sống nó thiếu ý nghĩa. Trên thực tế, mỗi cuộc đời của chúng ta có những nốt nhạc tuyệt vời như một cung đàn với sự biến thiên của Đồ Rê La Xôn Đa Xí Đố. Có thể là như thế, nhưng tùy theo cách sắp xếp của nhạc sĩ và vần điệu mà bản nhạc ấy trở thành bất hủ. Cũng như vậy, ngôn ngữ là những vần điệu ghép ráp lại với nhau từ 24 chữ cái; nhưng lại có kẻ nghịch đời hỏi ta rằng: chữ nào của tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nhật, tiếng Tàu, tiếng Việt làm cho con người khi đọc lên, thấy dễ chịu nhất? Sau một hồi thử nghiệm và phân tích các dân tộc trên đều có cùng một kết luận là chữ:
Mother – theo tiếng Anh
Mutter – theo tiếng Đức
Mère – theo tiếng Pháp
Hahaoya – theo tiếng Nhật
Mushin – theo tiếng Tàu
Mẹ – theo tiếng Việt…
Là gần gũi, thân thương và khi người ta đọc đến dễ có cái cảm nhận nhẹ nhàng, dễ chịu. Từ hình ảnh con người, đến hình ảnh con thú, lúc nào Mẹ cũng là một điệp khúc khiến cho ta dễ tin tưởng và dễ dàng bày tỏ nỗi niềm hơn. Dĩ nhiên cũng có nhiều loài động vật khi đẻ ra không nuôi con mình như rùa, ba ba… nhưng lắm loài, dầu độc ác đến đâu như hùm, beo, sư tử con mẹ đều chăm sóc cho con mình một cách chu đáo. Đôi khi sư tử đực ganh ghét với con, qua sự chăm sóc của sư tử cái; nên sư tử đực đã giết con mình; nhưng đa phần loài có vú và đẻ trứng, con nào cũng có tình thương mẫu tử như con người vậy.
Một hôm tại một Thánh Đường có một sinh viên bước vào để cầu nguyện. Chàng ta trông lên hàng ghế đầu, thấy nhà Bác học Ampère, cha đẻ của điện năng, đang cầu nguyện một cách chí thành. Sau khi cầu nguyện, nhà Bác học trở về lại phòng nghiên cứu của mình tại đại học. Chàng sinh viên ấy vẫn dõi bước theo vị Bác học nầy. Đến nơi, chàng sinh viên gõ cửa xin vào và thưa.
– Thưa nhà Bác học, em muốn hỏi một điều
– Em cứ tự nhiên – nhà Bác học trả lời và tiếp:
– Em cần ta giúp gì? Có phải muốn giải dùm cho em một phương trình toán học?
– Thưa Ngài: Không!
– Hay em cần ta chứng minh cho một định đề vật lý?
– Thưa Thầy: Không! Em là sinh viên của khoa ngôn ngữ, chứ không phải phân khoa toán học, thưa Thầy.
– Vậy em cần gì nơi ta?
– Em xin hỏi Thầy rằng: Có khi nào người ta vừa là một con chiên ngoan đạo dưới chân của Chúa và vừa là một nhà Bác học vĩ đại không?
– Ồ! Em lầm rồi! Chính khi người ta cầu nguyện, người ta mới vĩ đại; chứ nhà Bác học không phải là vĩ đại.
Đọc xong mẩu đối thoại trên, ta thấy được gì? Trong kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy rằng: “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu”. Nghĩa là niềm tin chính là Mẹ của các công đức. Chính niềm tin vào một Tôn giáo, công đức sẽ được phát sanh. Cũng như thế ấy; nhờ niềm tin, mới có một nhà Bác học vĩ đại như ông Ampère; chứ không phải nhờ Bác học mà có thể sinh ra niềm tin được.
Vào ngày 8 tháng 8 năm 2013 vừa qua, Hòa Thượng Thích Minh Tâm, Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu, kiêm Viện chủ Chùa Khánh Anh tại Pháp đã thuận thế vô thường và ra đi một cách an nhiên tại bệnh viện Turku ở Phần Lan, sau khóa tu học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 26 tổ chức tại đó. Ngài có tuổi thọ 75. Mặc dầu Ngài sinh năm 1940 như trong Sổ Thông Hành ghi; nhưng kể theo Dương Lịch thì Ngài mới hơn 73 tuổi rưỡi; còm Âm Lịch thì Ngài sinh vào cuối tháng 11; nên vẫn là tuổi thọ 75. Một cuộc đời, trên hai vai tự mình mang theo trách nhiệm của Giáo Hội vào, rồi cũng đang khi thi hành trách nhiệm ấy, lại ra đi một cách nhẹ nhàng, khiến cho nhiều nỗi tiếc thương, kính nhớ được bày tỏ qua thơ văn đã được đăng trên báo Viên Giác số 197 tháng 10 năm 2013 và Kỷ Yếu viết về Ngài nhân lễ Đại Tường của năm 2015 sắp đến.
Cuộc đời nầy vốn dĩ thản nhiên với mọi việc như thế. Bên nầy dòng sông có kẻ sinh ra và người mất đi. Ở bên kia rặng núi ấy có người đã tự tử và gia đình đang tang tóc. Ở dưới kia có cặp vợ chồng đang hạnh phúc bước đi bên nhau và ở phía ấy có những người già cô đơn đang trách móc con cái. Cuối dòng sông kia có những người làm biển khổ cực với công việc của mình. Ở tận trên lầu cao kia là chỗ làm việc của một ông giám đốc. Ở đây họ cãi cọ với nhau nhiều quá. Đằng kia có những Thiền sinh đang thực tập thiền. Tại đây có tai nạn máy bay, xe hơi, xe lửa. Ở đàng xa kia có những người băng qua đường bị xe cán chết. Tại đó có những đứa bé đi ăn xin. Ở đây có những sinh viên ưu tú đang chờ đón lễ tốt nghiệp v.v… và v.v…. Cả hằng trăm, hằng ngàn, hằng vạn sự kiện như vậy xảy ra trong từng sát na trên quả địa cầu nầy với hơn 6 tỷ con người. Ai ngồi đó mà tính, mà đong, mà xét, mà đoán, mà luận tội, mà tranh tài? Vả chăng nghiệp lực và tạo hóa cứ mãi xoay vần để cho con người và mọi vật phải đến, đi, còn, mất. Rồi vào ra ba cõi, xuống lên sáu đường, đã chẳng dừng nghỉ một chút nào cả. Cho nên trong kinh nói rằng: trùng trùng duyên khởi, trùng trùng biến hiện là vậy.
Đọc kinh Trường A Hàm, Trung A Hàm và Tạp A Hàm xong, tôi thấy Đức Phật, Ngài quá vĩ đại. Vĩ đại nhất trong những cái bình thường của một con người; nhưng lại trên tất cả những con người bình thường khác. Chuyện kể lại rằng:
Một hôm, Ngài đi trì bình khất thực như thường lệ, đến trước cửa nhà của một người Bà La Môn, Ngài dừng chân tại đó, có ý hóa duyên. Thế nhưng chủ nhà đi vắng, chỉ có con chó chạy ra sủa vang rền một hồi rồi đứng đó. Đức Phật nhìn con chó rồi bảo:
Mầy bị làm thân súc vật không biết xấu hổ mà còn sủa cái gì?
Con chó dường như hiểu được tiếng người. Nó cụp đuôi xuống, chạy vào nhà rồi leo lên giường nằm im thim thíp. Mãi cho đến khi chủ nó về, nó cũng chẳng nhảy xuống mừng rỡ như mọi khi. Người chủ thấy vậy mới hỏi gia nhân tại sao như vậy và người nhà thuật lại chuyện Đức Phật đã nói với con chó sáng nay như thế. Đoạn người chủ nhà ấy chạy thẳng đến nơi Đức Phật cư ngụ và hỏi Ngài rằng:
– Tại sao ông lại mắng con chó cưng của tôi như vậy?
– Không biết là ông có muốn hiểu sự thật không? Đức Phật từ tốn trả lời bằng câu hỏi như thế.
– Dĩ nhiên là muốn
– Con chó ấy chính là cha của ngươi đó.
– Tại sao lại như vậy? Cồ Đàm hãy giải thích đi.
– Trước khi chết, cha của ngươi có chôn 4 hủ vàng tại 4 chân giường ngủ; nhưng chưa cho ai hay biết cả, đã vội ra đi. Vì tiếc của; nên ông phải đầu thai làm con chó để giữ của. Nếu ngươi không tin, về nhà cho gia nhân đào dưới 4 chân giường lên, sẽ thấy 4 hủ vàng còn chôn cất tại đó.
Tiếp đến, người Bà La Môn vội vã chạy về nhà và thực hiện lời chỉ bảo của Đức Phật; quả thật đã thấy được 4 hủ vàng. Cuối cùng người Bà La Môn ấy hối hận đã đến trước Đức Phật cầu xin sám hối và từ đó Đức Phật đã kể lại chuyện trên cho đại chúng nghe. Cho nên trong Đại Tạng Kinh Nam Truyền mới chép lại nguyên bằng tiếng Pali như vậy.
Đọc câu chuyện nầy chúng ta thấy được gì?
Thấy sự tái sanh không nhất thiết phải là con người ở kiếp kế tục, mà ông Bà La Môn nầy đã trở thành con chó. Vì cận tử nghiệp của ông chứa chấp lòng tham của và của ai chưa ai được biết; nên chỉ tựa vào nghiệp của con chó và sinh ra làm chó mới có thể giữ nhà được, tiện thể giữ của luôn. Bây giờ con ông đã biết qua lời dạy của Đức Phật là của ấy đã chôn cất ở đâu. Thế là con chó ấy đã mãn nguyện và hóa kiếp.
Cũng câu chuyện nầy cho chúng ta thấy rằng: Chết không phải là hết, mà chết chỉ là sự bắt đầu của một kiếp sống khác. Kiếp sống sau liên hệ với kiếp sống trước, tiếp tục trong việc đầu thai để làm con nầy hay con kia trong ba nẻo sáu đường của cõi dục giới hay cao hơn nữa sẽ được sanh vào cõi sắc và cõi vô sắc. Ở những cõi nầy tuổi thọ sẽ được dài lâu hơn; nhưng khi hưởng hết phước rồi, cũng có thể sanh lại làm người hay làm lừa cũng không chừng. Đó là nhân và quả luôn luôn tương hợp nhau để phối thành một hoạt cảnh của tử sanh là như vậy.
Từ đó ta có thể ví dụ rằng: Sự sống của một kiếp nhân sinh, nó giống như một dòng điện. Còn thân thể con ngườì hay con vật, giống như một bóng điện. Những bóng điện ấy dầu tốt đến bao nhiên đi chăng nữa, chúng cũng sẽ có một ngày bị cháy, bị hư và bị hủy hoại. Thế nhưng dòng điện ấy vẫn còn. Làm sao để chúng ta biết được việc ấy? Vì lẽ nếu chúng ta thay một bóng điện khác có công suất tốt hay sáng hơn thì bóng điện kia sẽ mờ hay tỏ. Điều nầy chứng minh rằng dòng điện ấy vẫn còn. Vậy chết không phải là hết, mà chết chỉ là sự bắt đầu của một kiếp sống khác mà thôi. Dòng điện ấy có thể ở thể cao, thấp, nóng, lạnh v.v… tất cả đều do con người tạo ra, mà dòng điện vẫn là dòng điện. Tự thể của nó thì chẳng cao hay chẳng thấp; nhưng do con người biến chế nó thế nào, thì dòng điện kia sẽ thuận theo như vậy.
Ở đây tâm thức của con người cũng giống như một người thợ giỏi, thợ khéo như trong kinh Pháp Cú đã có dạy. Tâm ấy sẽ tạo nên thiên đường hay địa ngục; tâm ấy làm chủ, tâm ấy tạo tác. Con người, chư thiên, Bồ Tát, A La Hán, con thú v.v… tất cả chỉ đều theo sự biến hóa của tâm mà thôi. Khi làm chư thiên thì tâm ấy nương theo thần lực của chư thiên để đi mây về gió. Tâm ấy trở thành ngạ quỷ, tâm ấy sẽ mang ta vào cõi địa ngục của sự tham sân. Nếu tâm ấy là của vi A La Hán hay Bồ Tát thì sẽ thể hiện lòng từ bi và trí tuệ cao vời. Cũng với tâm nầy, con người sẽ thành Phật. Cho nên một vị Thiền sư người Nhật đã dạy rằng:
Ki no naka ni hana ga aru
Ishi no naka ni hi ga aru
Nghĩa:
Trong cây có hoa
Trong đá có lửa
Hoa và lửa tượng trưng cho Phật tánh hay tâm thức của mỗi chúng sanh. Hoa chỉ nở khi nhân duyên hội đủ vào mùa xuân, khi có khí trời ấm áp. Lửa chỉ xuất hiện, khi chúng ta cọ sát hai hòn đá lại với nhau. Tất cả đều phải có điều kiện và chủ nhân của nó là tâm nầy. Nếu chúng ta không có hành động cọ sát thì chắc chắn lửa sẽ không được phát sinh.
Từ những điểm trên đây, chúng ta là người Phật tử, chúng ta không sợ chết và cũng chẳng có gì để phải lo âu. Vì chính ngay từ giờ phút nầy ta đã rõ biết là sẽ đi về đâu, sau khi cuộc sống nầy của chúng ta chấm dứt. Điều quan trọng là chúng ta muốn đi đâu mà thôi. Chúng ta có cần đến trợ lực của chư Phật và chư vị Bồ Tát? Hay chúng ta vẫn muốn trở lại cõi Ta Bà nầy để tiếp tực thực hiện lại những lời thệ nguyện khi xưa vốn chưa làm tròn? Có thể làm người mà cũng có thể làm con chó như câu chuyện vừa được dẫn chứng bên trên?
Đây là một câu hỏi mà mỗi chúng ta đều có đầy đủ khả năng và có thể tự trả lời cho mình rồi. Cuộc đời nầy vốn dĩ ngắn ngủi lắm. Hãy bắt tay ngay vào việc thực hành giáo pháp của Đức Phật cũng chưa muộn lắm đâu.
Thích Như Điển – Theo chuabuuchau.com.vn