Bát Nhã Tâm Kinh Giảng Giải Vô Thượng Niết Bàn Ch.30

30 Thế nào là ma cảnh?

Ma cảnh là những hiện tượng không có thật, những cảm giác hư huyễn, những ảo tưởng mà người tu thiền thường gặp phải trong giai đoạn nào đó. Ma cảnh là những vọng tưởng đến và đi theo thời gian nhưng nó sẽ trở thành chướng ngại cho người tu vì thiếu sự chỉ dẫn để nó quyến rũ mà tưởng rằng nó là thật. Ma cảnh thường xuất hiện tùy theo nhân cách tánh khí của người tu. Trong kinh Lăng Nghiêm Đức Phật đã giảng rõ về 52 loài ma cảnh khác nhau. Sau khi siêng năng tu tập để kiềm chế tư tưởng đến một lúc nào đó ma cảnh sẽ xuất hiện và điều nầy rất thông thường không có gì là lạ cả. Có người nhìn thấy các hiện tượng lạ lùng, có người nghe được những lời nói, hay mách bảo xui khiến, có người còn ngửi được những mùi hương hay có thể sờ mó được một vật gì kỳ lạ. Có khi họ thấy thân thể nhẹ bổng lên như bay, có khi họ cảm thấy như rơi vào một hố thẳm không đáy. Có khi họ bật ra các câu nói kỳ lạ mà không thể kiểm soát được.

Đôi khi những câu nói tưởng như vô tình nầy lại trở nên linh nghiệm như những lời tiên tri. Nhưng dù thế nào chăng nữa nó vẫn là ma cảnh. Vẫn là những chướng ngại, vẫn xuất phát từ các tư tưởng có nghĩa là gốc rễ của nó nằm trong vô minh. Ảo ảnh về thị giác là điều thường xảy ra nhiều nhất vì mắt là giác quan gắn liền với tư tưởng mà con người thường xử dụng giác quan nầy nhiều hơn cả. Một ý niệm bỗng biến thành một con quái vật, một vết nứt trên tường bỗng biến thành con rắn. Nhiều người còn thấy cả hình ảnh ma quỷ, nhe nanh múa vuốt hoặc thấy các Đức Phật hiện ra với hằng hà sa số đệ tử đi quanh Ngài. Điều quan trọng nhất phải ý thức đó là ma cảnh, đừng để nó quyến rũ, lôi cuốn mà cứ để tự nhiên vì nó đến thì nó sẽ đi. Đừng để tâm vọng động, cứ tiếp tục công phu thiền tập, không sợ hãi và cũng không vui mừng, vì vui hay sợ, lo hay mừng đều là những cảm giác làm khuấy động tâm thức của người tu. Vấn đề quan trọng trong việc thiền định là làm bặt mọi tư tưởng và làm sao để tâm trống rỗng, yên tĩnh như mặt nước hồ thu thì ánh trăng của chân lý mới có thể phản chiếu một cách toàn vẹn được. Bất cứ một cái gì làm cản trở điều nầy đều là những chướng ngại. Do đó việc quan trọng nhất là phải biết tự chủ.

Nhưng lý do nào làm đã cho ma cảnh xuất hiện?

Ma cảnh là những trạng thái của tâm thức xuất hiện một cách nhất thời trong khi khả năng tập trung của con người đã đạt đến một mức độ nào đó. Nếu hiểu theo một nghĩa khác thì công phu thực hành có tiến bộ, các lớp tư tưởng hời hợt trong tâm thức có bị chế ngự thì ma cảnh mới xuất hiện. Còn nếu giải thích theo Duy Thức học thì khi các vọng niệm thuộc thức thứ sáu đã lắng đọng, các chủng tử tâm thức chứa đựng trong thức thứ bảy và thứ tám sẽ bị khích động và nổi lên tạo thành các hình ảnh màu sắc, âm thanh đặc biệt. Ma cảnh là một sự trộn lẫn của cái thật và cái không thật, hư hư ảo ảo. Nó khác với các giấc mộng thông thường vì nó xuất phát từ những chủng tử hết sức vi tế nằm rất sâu trong tâm thức con người.

Nếu người tu thiếu sự chỉ dẫn của một vị thầy đã có kinh nghiệm về ma cảnh thường bị chúng quyến rũ và đi lạc vào ma đạo. Đừng bao giờ nghĩ rằng các hiện tượng mình kinh nghiệm được trong lúc nầy là thật. Thấy một cảnh giới chư thiên không có nghĩa là mình đã đạt đến cảnh giới đó và trở thành chư thiên. Thấy Phật hay Bồ tát không có nghĩa là mình đã nhập được vào các pháp hội để nghe Phật thuyết pháp mà lầm lẫn. Một người tu tập phải biết coi đó là một giấc mộng, là hư, là vọng tưởng, là những chướng ngại làm cản trở công phu tu hành. Dù thấy bất cứ điều tốt lành gì cũng đừng phấn khởi, dù thấy điều gì xấu xa cũng đừng sợ hãi vì nếu trong tâm nẩy sinh bất cứ một cảm giác gì nó cũng khuấy động mặt nước hồ tâm, cản trở sự phản chiếu toàn vẹn của ánh trăng chân lý. Khi tu tập đến mức thuần thục các ma cảnh còn xảy ra ghê gớm hơn nữa.

Có khi người tu thấy vào cõi Phật, thấy được ban phúc, được truyền tâm ấn mà tưởng mình chứng đắc nầy nọ. Tất cả những cái đó cũng đều là ma cảnh. Nếu bị quyến rũ và nếu để tâm vọng động thì kết quả chỉ là sự phung phí năng lực của mình mà thôi. Nhưng nói một cách khác là khi bắt đầu thấy những ma cảnh thì đó là dấu hiệu cho biết mình đã đến một mức điểm quan trọng nào đó rồi. Và nếu chúng ta giữ tâm yên tĩnh không bị xao động thì chắc chắn sẽ thành công, sẽ kiến tánh và sẽ giác ngộ. Chính Đức Phật cũng đã phải trải qua bao nhiêu thử thách và bao nhiêu khó khăn trước khi thành đạo dưới gốc Bồ-đề. Người ta có thể cho rằng có những thiên ma hiện ra quấy phá, thử thách Ngài, nhưng cũng có thể đó là những ma cảnh mà Ngài kinh nghiệm trước khi đạt đến những trạng thái giác ngộ. Dù thế nào đi chăng nữa phải biết coi thường những hiện tượng nầy, cứ để nó đến rồi nó đi không phản ứng, không chống đối, không vui cũng không buồn, không mừng cũng không lo, thản nhiên bất động trước mọi sự. Đó chính là điểm then chốt của người tu thiền.

Ma cảnh thường xảy ra khi sự điều hành của hơi thở và tâm thức chưa được hoàn chỉnh. Khi tâm và thân chưa hoàn toàn nhất như tức là một thì sự sai lệch nầy có thể tạo ra những hiện tượng kỳ lạ. Do đó tư thế tọa thiền và việc điều hòa hơi thở rất cần thiết. Người ta không thể tu thiền một cách hấp tấp mà phải chú trọng đến cách ngồi cho thật đúng cách, thật thoải mái và buông xả hoàn toàn. Nên nhớ thân và tâm là một vì thế bất cứ một sự căng thẳng nào của thân cũng ảnh hưởng đến tâm và bất cứ một sự xung đột nào của tâm cũng ảnh hưởng đến thân. Việc ngồi mới nghe thì giản dị nhưng thật là rất quan trọng không kém việc điều hòa hơi thở. Phần lớn các vị thầy dạy thiền vì quá chú trọng đến việc đếm hơi thở mà xao lãng việc dạy học trò ngồi sao cho thật đúng cách.

Phần đông các học trò cũng nôn nóng hấp tấp vào những công án lạ lùng, các quán tưởng cao xa trong khi chưa biết cách ngồi sao cho thoải mái. Có lẽ đó là lý do nhiều người tu thiền đã bỏ cuộc vì ngồi lâu làm chân tay tê buốt đau đớn mà chẳng thấy kết quả gì khả quan. Tư thế trong lúc tọa thiền chính là một trong những căn bản quan trọng của công phu tu tập. Đừng tưởng chỉ ngồi xếp bằng, tập trung tâm thức và điều hòa hơi thở là được. Một người tu thiền phải biết ngồi một cách trang nghiêm, thành kính với lòng biết ơn sâu xa chư Phật và chư Tổ là những người đã làm Phật pháp biểu hiện. Nhờ đó mà người ta mới có thể kinh nghiệm được thật tánh của Pháp.

Chính nhờ biết cách ngồi một cách trang nghiêm mà tâm thức sẽ trở nên thành kính và từ đó những cử chỉ hành động như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, ngủ cũng ảnh hưởng theo những sự chuyển hóa. Nhờ công phu tọa thiền mà tâm thức được thoải mái, các vọng tưởng dần dần lắng xuống và tâm được thanh tịnh. Khi tâm và thân đã quân bình thì sự an lạc sẽ đến. Mà chỉ trong sự an lạc nầy người ta mới kinh nghiệm rõ rệt được từng hơi thở sống động, mầu nhiệm từng phút, từng giây. Từ đó sự hô hấp vốn có tính cách vô thức và thụ động sẽ chuyển qua ý thức và toàn bộ diển biến của sự sống sẽ biểu hiện ra một cách rõ ràng hơn bao giờ hết.

Tóm lại việc ngồi cho đúng cách là căn bản chính yếu cần thiết cho những người mới bước vào con đường thiền. Đừng cố gắng ngồi cứng ngắc như khúc gỗ vừa không tự nhiên vừa quá căng thẳng, nhưng cũng đừng ngồi một cách cẩu thả nặng nề trì trệ như bị một vật gì đè nặng trên vai. Tư thế ngồi phải thật thoải mái, vững chãi. Chúng ta có thể ngồi vào giữa tọa cụ hay trên một tấm nệm mềm theo kiểu bán già hay kiết già. Thế kiết già tốt hơn vì bàn chân áp vào đùi và các huyệt đạo có ảnh hưởng tốt cho gan, túi mật và thận. Hông hơi đưa về phía trước, lưng giữ thẳng, đầu gối đè xuống đất và đầu đưa thẳng lên trời. Cổ vươn cao lên và hơi đưa về phía sau, bụng để tự nhiên. Sau khi vào thế ngồi xong thì mỗi bàn tay nắm lấy ngón tay cái, rồi để ngửa lên đùi gần đầu gối. Sau đó chúng ta lắc người từ trái sang phải và từ phải sang trái sáu hay tám lần. Cứ mỗi lần chuyển động thì ít hơn cho đến khi dừng hẳn lại thì bây giờ thân người sẽ thật thẳng đứng trong sự quân bình tự tại.

Bây giờ chúng ta để bàn tay trái trong lòng bàn tay mặt, khớp xương to của ngón giữa chạm vào nhau. Hai bàn tay ngửa lên và đặt trong lòng, ngón út chạm bụng. Hai đầu ngón tay cái chạm và hơi ấn vào nhau nhè nhẹ như đang giữ một tờ giấy không cho rơi. Cố giữ cho hai ngón nầy thành một đường thẳng ngang. Còn hai cánh tay thì cứ để thỏng tự nhiên bên cạnh hông.

Khi đặt tay vào vị trí rồi thì hai vai hơi đưa về phía sau và chúng ta nên để cho chúng thư giản tự nhiên. Đầu lưỡi chạm khẩu cái tức nóc miệng ngay sau răng cửa hàm trên. Hai mắt nhìn xuống vào một điểm trên sàn nhà độ chừng nửa thước trước mặt và hơi nhắm lại. Mí mắt nửa nhắm nửa mở nhưng không nhìn gì. Đó là tất cả những gì cần thiết cho thế ngồi. Khi ngồi như thế chúng ta nên tâm niệm rằng đây là một thế ngồi rất nghiêm chỉnh và mạnh mẽ vì nó chính là tư thế ngồi của Đức Phật khi thành đạo.

Do đó, khi mới tập chỉ nên ngồi khoảng 15 phút cho quen thuộc, cho gân cốt co giãn tự nhiên theo tư thế. Rồi dần dần tăng lên nữa giờ, rồi một giờ. Dĩ nhiên thời gian tọa thiền lâu hay mau tùy lòng nhiệt thành và công phu hạnh trì. Có người ngồi từ nửa giờ đến một giờ mà thân thể không đau đớn, tê buốt. Cái cảm giác an lạc, thoải mái sẽ đến một cách tự nhiên.

Thứ nhì phải nói đến hơi thở. Hơi thở là tối cần thiết cho sự sống nhưng lại hay bị lãng quên mất. Mục đích của thiền tọa là giữ cho hơi thở chậm, mạnh và đều. Chúng ta chỉ cần chú ý lúc thở ra sao cho dài, sâu và nhẹ trong khi theo dõi các bộ phận của thân thể trong thế ngồi cho hòa nhip. Thở ra chậm và thật êm, trong cùng lúc đó từ từ thót bụng vào. Muốn biết bụng phải thót vào ra sao cho đúng cách thì trong một hơi thở thì chúng ta có thể kêu một tiếng trầm và dài cho tới khi hết hơi. Hãy quán tưởng đến hơi thở như là sự thông thương nối kết giữa hai thế giới bên trong ta và vũ trụ bên ngoài ta và hai bên hòa với nhau thành một thể cũng bởi nhờ vào hơi thở.

Phần thứ ba là diễn tiến của tâm thức: Nếu chúng ta ngồi và thở cho đúng rồi thì phần nầy rất dễ. Một khi chúng ta bận rộn theo dõi hơi thở thì tâm thần sẽ không còn bấn loạn và các hoạt động của tâm trí sẽ được định hướng. Như trên đã nói một trong những mục đích thực tiển trong việc thực hành thiền là để xóa bỏ cái trạng thái xác một nơi mà hồn một nẻo để cho con người trở về với trạng thái thân tâm là một. Chẳng hạn như khi lái xe mà chúng ta lại nghĩ về trăm ngàn chuyện khác thì tai nạn chắc chắn sẽ xảy ra. Bây giờ chúng ta quay lại chú tâm vào việc lái xe, thưởng thức giây phút nầy thì chẳng những chúng ta được an toàn mà cảm thấy rất yên vui trong khi lái xe. Thiền thì cũng thế, khi đã nắm lấy hơi thở rồi thì chúng ta sẽ thấy một cảm giác bình yên như khi sắp ngủ, nhưng đồng thời chúng ta lại rất minh mẫn và trong tâm lúc đó tất cả những tư tưởng nhị nguyên tương phản sẽ không còn nữa. Hiện tại con người chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh nên phải đối đầu với quá nhiều vọng thức làm cho trực giác và sự minh mẫn tự nhiên mà nhà Phật gọi là tự tánh hay tánh giác của chúng ta bị lu mờ. Vì thế ngồi thiền là trở lại với những phần bị bỏ quên đó của trí tuệ.

Chính nhờ vậy mà chúng ta có thể tái tạo sợi dây liên lạc giữa phần ý thức của ta với con người nguyên thỉ tiềm tàng trong ta. Con người đó chính là bản tánh thanh tịnh, vốn tự đầy đủ và không ô nhiễm ở trong ta. Ngoài những thời gian ngồi thiền ra, chúng ta nên cố giữ sự tĩnh thức toàn vẹn trong bất cứ việc gì mình đang làm. Nếu muốn nói chuyện với bạn bè thì hãy chú tâm vào câu chuyện. Còn muốn xem TV thì hãy nghỉ để coi TV. Ngày nay rất nhiều người tay đang đánh máy vi tính mà vừa kẹp điện thoại ở cổ nói chuyện với bạn. Làm như vậy thì vừa không giữ được một phong thái nghiêm chỉnh vừa không hoàn tất được một việc nào cho hoàn mãn. Thêm nữa, lúc mặt trời mọc và mặt trời lặn là hai thời điểm tốt nhất để ngồi thiền bởi vì cơ thể của con người vào lúc đó chuyển từ trạng thái tĩnh sang động và ngược lại. Hiện tại con người đi làm phải tuân theo một thời khóa biểu tương đối cố định và nó được định đoạt bằng đồng hồ chứ không phải mặt trời. Dù vậy, nếu chúng ta tập ngồi thiền vào buổi sáng và buổi chiều tức là lúc chuyển tiếp giữa động và tĩnh thì vẫn tốt hơn là trong buổi trưa và ban đêm.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.