Giảng Giải Kinh Duy Ma Cật – Chương I

Chương Thứ Nhất

Phẩm Phật Quốc

Cõi Nước Phật

(Purification of the Buddha-Field)

Tên của phẩm nầy là Phật Quốc có nghĩa là cõi nước Phật. Vậy cõi nước Phật ở đâu? Thông thường thì con người thường hiểu là khi Đức Phật Thích Ca thị hiện trên trái đất nầy để hóa độ chúng sinh, cõi Ta-bà nầy chính là cõi nước Phật của Ngài. Tây Phương Cực Lạc là cõi nước Phật của Phật A Di Đà. Thế giới Đông Phương là cõi nước Phật của Phật Dược Sư…Nhưng trong kinh nầy, cõi nước Phật không ở cao mà cũng chẳng ở xa. Chính cõi nước Phật ở ngay trong tâm của con người. Một khi tâm con người đoạn hết tất cả vô minh, phiền não để trở thành sáng suốt giác ngộ chân lý thì tâm đó chính là tâm Phật. Người có tâm Phật ở đâu thì cõi nước đó trở thành cõi nước Phật. Chúng ta là phàm phu tâm chất đầy ô nhiễm thì ở đâu cũng gắn liền với phiền não khổ đau bất tịnh còn Đức Phật Thích Ca tuy sống ngay trong thế giới Ta-bà mà biến cảnh uế độ trở thành cõi Phật đẹp đẻ trang nghiêm thanh tịnh. Vì thế Phật dạy rằng:”Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh” nghĩa là hễ tâm người thanh tịnh thì có cõi Phật thanh tịnh.

Lúc bấy giờ Đức Phật đang ở vườn Am la (giống như trái xoài nhưng chỉ có một màu xanh từ khi còn sống đến khi chín nên khó phân biệt trái nào sống trái nào chín) thuộc địa phận thành Tỳ Xá Ly cùng tám ngàn chúng Tỳ kheo và ba vạn hai ngàn Bồ-tát. Tất cả đều là những vị có danh tiếng và đã thành tựu trí hạnh đại thừa. Họ là những người đã trồng sâu cội đức tri hành tự tại trong sự nghiệp giải thoát giác ngộ. Do oai thần của chư Phật, các vị làm bức thành hộ pháp, giữ gìn chánh đạo, truyền bá chánh pháp và là bạn lành của chúng sinh.

Danh hiệu của các Ngài là Đẳng Quán Bồ-tát, Bất Đẳng Quán Bồ-tát…Di Lặc Bồ-tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ-tát. Lại có vua trời Đế Thích, Thiên Long Bát Bộ cùng các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni và Phật tử nam nữ cung kính vây quanh Phật để nghe Pháp.

Đẳng Quán Bồ-tát là vị Bồ-tát thường sử dụng quán trí để nhận thức vạn pháp dựa vào tính bình đẳng trên phương diện bản thể chung cùng. Bất Đẳng Quán Bồ-tát là vị Bồ-tát thường sử dụng quán trí nhận thức dựa vào tính sai biệt trên phương diện hiện tượng tùy duyên.

Trong thời Đức Phật lúc nào cũng có 1250 vị đại Tỳ kheo là những người đã theo chân Ngài từ khi Đức Thế Tôn mới thành đạo và trong pháp hội nầy có trên tám ngàn vị Tỳ kheo mà kinh không hề nói đến tên một vị nào mà chỉ kể tên của các đại Bồ-tát mà thôi. Như vậy bản kinh nầy không đề cao Tỳ kheo mà chỉ chú trọng tới các Bồ-tát. Phải chăng đây là ám chỉ những Bồ-tát tại gia? Bởi vì những Bồ-tát nầy là những người mà thiên hạ ai cũng nghe cũng biết. Trí tuệ của các Ngài rộng lớn và khi cần làm lợi ích cho chúng sinh thì lăn xả vào đời mà cứu độ chứ không phải đợi mời, đợi thỉnh.

Lúc bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có vị Trưởng Giả Tử Bảo Tích cùng với 500 trưởng giả tử, mỗi vị cầm một cây lọng thất bảo, đồng đến đảnh lễ Phật, rồi cùng dâng tất cả lọng ấy cúng dường Phật.

Trong Hán tự chữ Tử có nghĩa là con mà cũng còn có nghĩa là người hiểu biết tận cùng như là một vị Thánh. Vì thế các bậc Thánh hiền bên Trung Hoa như Khổng Tử, Lảo Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Trang Tử …được dùng chữ Tử để tôn xưng. Có lẽ ngài Cưu Ma La Thập khi dịch kinh nầy từ chữ Phạn sang chữ Hán đã thêm chữ Tử vào làm cho vai trò của các vị trưởng giả càng thêm tôn kính. Trong kinh Hoa Nghiêm cũng đề cao vai trò của Thiện Tài Đồng Tử là những người tu hành đã trừ hết vô minh phiền não, chân Trí hiện bày để trở về với bản tánh trong sạch hồn nhiên ví như một đứa trẻ thơ. Thông thường thì trưởng giả là những người giàu sang, phú quý, nhiều tiền, lắm của, tôi tớ đầy nhà, nhưng chưa chắc là đạo cao đức trọng Vì thế khi gọi Trưởng Giả Tử thì ngài Cưu Ma La Thập muốn ám chỉ đây là loại trưởng giả đặc biệt chẳng những họ là những người sang trọng, cao quý trong xã hội mà lại là người tu hành tinh tấn, vun bồi công đức vẹn toàn, thực hành Lục độ vạn hạnh, phát tâm Từ, Bi, Hỷ Xã. Mặc dầu họ chưa chứng đắc nên không thể nào so sánh với cư sĩ Duy Ma Cật nhưng đây là bước đầu của kinh để chứng minh và giới thiệu vai trò của hàng cư sĩ tại gia nếu tinh tấn tu hành đoạn trừ ô nhiễm thì họ cũng có thể chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn để được giải thoát giác ngộ. Bảo là của báu rất quý giá còn Tích là gom lại lưu trữ. Vậy Trưởng Giả Tử là những bậc trưởng giả đáng tôn kính chứ không phải là con ông trưởng giả. Trong phẩm nầy vai trò ông Trưởng Giả Tử Bảo Tích được đề cao, nhưng nhân vật chính trong kinh vẫn là cư sĩ Duy Ma Cật. Vậy thế nào là Bảo Tích? Bảo là của báu rất quý giá còn Tích là gom lại lưu trữ. Do đó Bảo Tích là gom lại lưu trữ những của báu quý giá nhất trên đời.

Mỗi vị Trưởng giả Tử cầm một cây lọng thất bảo (bảy báu) đến cúng dường Phật. Cây lọng bằng bảy báu nầy không phải làm bằng nhung gấm lụa là hay vàng bạc vật chất của thế gian vì Đức Phật đâu cần những thứ nầy mà cái lọng thất bảo nầy là tượng trưng cho sự phát tâm Bồ-đề, công quả tu hành, công đức và công hạnh của các vị đó. Vậy cây lọng thất bảo làm bằng gì? Nếu nói về vật chất thế gian thì bảy báu là vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, trân châu, san hô và mã não. Nhưng ở đây, bảy báu là bảy con đường thiện xảo đưa con người từ mê đến giác, từ phàm đến Thánh. Đây chính là Thất Thánh Tài và gồm có: Giới, Tín, Văn, Sám hối, Tinh tấn, Buông xả và Trí tuệ.

Vàng là vật cao quý chẳng khác gì Giới

Bạc là sự thay trắng đổi đen nên ám chỉ cho Tín tức là lòng tin tưởng vào Phật pháp, không còn nghi ngại.

Lưu ly là lưu chuyển tượng trưng cho Văn tức là tánh nghe.

Xà cừ có hình tướng xấu xa nên ám chỉ cho Sám hối.

Trân châu là thanh cao tượng trưng cho Tinh tấn.

San hô thì tượng trưng cho Buông xả.

Mã não thì sáng chói tượng trưng cho Trí tuệ.

Cây lọng báu mà các vị trưởng giả tử đem cúng dường cho Phật nói lên quá trình tiến tu của người Phật tử bằng cách giữ gìn giới hạnh để tâm được thanh tịnh rồi mới phát khởi lòng tin vào chánh Pháp vì Phật đã khẳng định rằng ai ai cũng có khả năng thành Phật nếu tinh tấn tu hành. Nếu có được công đức thì nên buông xả, pháp thí hết bằng cách hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Con đường Phật đạo viên mãn là người Phật tử phải biết ăn năn sám hối làm lành tránh dữ và vun bồi công đức thì trí tuệ sẽ phát sinh. Có trí tuệ tức là thấy được Chân lý. Mà muốn thấy được Chân lý thì con người phải có đủ nghị lực để lìa bỏ, buông xả và hy sinh những của cải cao quý tạm bợ của trần gian để vào Thánh đạo bằng cách tích tụ hằng hà công đức, giữ tâm thanh tịnh và dựa theo Thất Thánh Tài thì mới thành tựu.

Do oai thần, Phật khiến các lọng báu hợp lại thành một cây lọng lớn bao trùm cả ba ngàn đại thiên thế giới.

Từ khi có loài người đến giờ, có ai thấy cái lọng nào mà có thể che cả mặt trăng, mặt trời và trăm ngàn hành tinh trong vũ trụ chưa? Đây là kinh nói về Sự, nhưng về phần Lý thì chắc chắn cái lọng nầy ám chỉ cho Chơn Tâm. Tại sao? Bởi vì Chơn Tâm thì không hình, không tướng, không nặng, không nhẹ, là chơn không nên mới loan tỏa vô cùng vô tận trong mười phương thế giới. Chỉ có cái Thể của Chơn Tâm mới dung chứa được tất cả tam thiên đại thiên thế giới mà thôi.

Bao nhiêu cái lọng của các ông trưởng giả tử ví như bao nhiêu cái Tâm riêng biệt của mỗi người. Mà còn riêng tư, phân biệt thì làm sao có diệu dụng, thanh tịnh được? Cho nên sau khi Phật dùng thần lực để khiến 500 cây lọng thành Một có nghĩa là khi Tâm đã hợp nhất, không còn phân biệt thì đây mới chính là Chơn Tâm, là tâm Phật. Tâm thanh tịnh thì mười phương cõi Phật cho tới tam thiên đại thiên thế giới cũng hiện bày sáng tỏ trong đó hết. Năm trăm Trưởng Giả Tử có lọng báu tức là các vị đó đã có công phu tu hành thanh tịnh, bây giờ đem tất cả các lọng báu hợp lại thành Một có nghĩa là Nhất Tâm, là Chơn Tâm. Đây chính là nguyên lý Nhất Như tức là tất cả là Một.

Do oai thần, Phật hợp năm trăm lọng báu thành một có nghĩa là tuy có rất nhiều pháp môn tu hành nhưng cứu cánh chỉ có Một là chơn tâm thanh tịnh. Ngày xưa khi Đức Phật thành đạo dưới cội Bồ-đề thì Ngài dùng thiên nhãn hay Phật nhãn mà thấy được mười phương thế giới để khai thị cho chúng sinh biết rằng thế giới vũ trụ nhiều như cát sông Hằng mà ngày nay với thiên vọng kính Hubble bay chung quanh ở ngoài không gian của quỷ đạo địa cầu có thể nhìn thấy vô cùng vô tận hành tinh rất xa khoảng mấy ngàn năm ánh sáng thì cũng xác nhận những điều Phật dạy. Cũng như khi nhìn vào nước thì Phật thấy hằng hà vô số vi trùng bơi lội trong đó mà ngày nay với kính siêu hiễn vi con người mới nhận biết được. Cái gì làm Ngài sáng tỏ như thế? Tất cả đều là do Tâm Ngài hoàn toàn thanh tịnh. Ngài có chứng được tam minh hay lục đại thần thông thì cũng do tâm thanh tịnh mà ra.

Các núi Tu di, núi tuyết, các biển cả, sông ngòi, mặt trời, mặt trăng vô vàn tinh tú. Các Thiên cung, Long cung, Thần cung và cảnh giới chư Phật thuyết pháp, nhập Niết Bàn trong mười phương đều hiện rõ trong cây lọng báu.

Các hiện tượng hữu hình như biển cả, sông ngòi, mặt trăng, mặt trời…cho đến các thế giới vô hình như Long cung, Thần cung…ngay cả cảnh giới chư Phật đang thuyết pháp hay nhập Niết bàn cũng đều do Tâm tạo. Do đó Khế Kinh mới có câu:”Vô bất tùng thử pháp giới lưu, mạc bất hoàn qui thử pháp giới” có nghĩa là không có pháp nào chẳng từ tâm nầy mà lưu xuất và cũng không có một pháp nào chẳng trở về tâm nầy. Thật vậy, có Phật, có Thánh hiền, có muôn sanh vạn vật cũng phát xuất từ Tâm, mà tạo ra địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng bởi từ Tâm. Biết dập tắt tâm si mê cuồng loạn thì con người sẽ được thanh tịnh Niết bàn giải thoát còn chạy theo lục dục thất tình thì tâm dẫn dắt con người vào chốn trầm luân đau khổ. Khi tịnh là chơn tâm còn khi động thì chơn tâm biến mất và vọng thức dấy lên làm cho con người thêm mê muội. Cũng như ánh sáng mặt trời bị đám mây đen che lấp làm cho cảnh vật thế gian chìm trong tăm tối. Vì để dễ dàng cho con người phân biệt giữa thật với giả nên kinh điển Phật giáo mới tạm gọi chơn tâm và vọng tâm (vọng thức) nhưng tâm vốn chẳng hai tức là Bất nhị. Tâm thì chỉ có Một mà Tướng và Dụng thì rộng lớn vô lượng vô biên. Chân tâm thì thường trụ, bất động và an nhiên tự tại nhưng bởi vô minh khiến tâm vọng động biến thành muôn hình vạn cảnh. Nếu con người có công phu tinh tấn tu hành, diệt hết vô minh thì vọng thức biến mất và chơn tâm thanh tịnh hiện bày. Ví cũng như vì có gió mà tạo nên những làn sóng nhấp nhô tức là Dụng. Nay nếu gió dừng thì sóng sẽ trở về với Thể nước thanh tịnh ban đầu. Vì vậy nước và sóng cùng là nước nên chẳng phải hai tức là Bất nhị. Cứu cánh của đạo Phật vẫn là tâm thanh tịnh. Một khi tâm của chúng sinh đã thanh tịnh thì tất cả mọi cảnh giới bên ngoài xuất hiện rất rõ ràng cũng như ngọn đèn rất sáng tỏ khi không còn những cơn gió lốc thổi qua. Vậy chủ yếu của đạo Phật là đi tới cái gốc tâm thanh tịnh thì mới thành cõi Phật thanh tịnh. Do đó nếu con người còn mơ ước cõi Phật mà không điều phục tâm mình được thanh tịnh thì mơ ước kia chỉ là viễn vông, ảo tưởng.

Bấy giờ trưởng giả tử thay lời đại chúng bạch với Phật bằng một bài kệ phát xuất từ lòng ái mộ, tôn kính vô biên:

Mắt Phật đẹp như hoa sen xanh.

Vì Phật là đấng giác ngộ nên phần trí tuệ biểu lộ nơi con mắt cho nên mắt Phật lúc nào cũng trong và sáng.

Tâm Phật hằng trụ trong Thiền định.

Vì tâm Phật đã hoàn toàn thanh tịnh nên lúc nào cũng trụ trong thiền định. Tại sao? Bởi vì thiền định giúp chúng sinh hàng phục vọng tâm và an trụ chơn tâm. Nhưng lúc nào tâm Phật cũng an trụ và thanh tịnh nên được ví như thiền định vậy.

Tịnh nghiệp tích lủy từ lâu đời.

Vì là Phật nên nghiệp chỉ là tịnh nghiệp, vô lượng vô biên.

Đại chúng cúi đầu nguyền tu học.

……..

Thuyết pháp: không có cũng không không.

Vì các pháp do nhân duyên sanh nên tự nó không có tự thể là vô ngã tức là không nên vạn pháp chỉ là giả Có. Do đó vạn pháp chẳng phải Có mà cũng chẳng phải Không bởi vì Có chỉ là tạm Có và Không cũng là tạm Không vì tất cả là do nhân duyên mà chính nhân duyên lại không thật thì làm sao cái Có, cái Không lại thật được. Vì chẳng chấp Có, chấp Không nên khi thuyết pháp, Phật dùng nguyên lý bất nhị để đánh tan tư tưởng nhị nguyên để thấy rằng thân tâm là Một

Pháp vốn vô ngã, vô thọ giả.

Tất cả các pháp trên thế gian nầy kể cả con người của chúng ta là do sự kết hợp của trùng trùng duyên khởi nên chúng không có chủ tể tức là vô ngã. Bây giờ hãy lấy con người của chúng ta làm thí dụ. Thật sự chúng ta có thể làm chủ hoàn toàn được con người của mình không? Khi bụng đói thì thân bắt chúng ta ăn, nhưng khi bụng quá no thì cho dù chúng ta muốn ăn thêm món mình thích thì nuốc cũng không nổi. Khi lái xe suốt đêm thì mắt sụp xuống mặc dầu đường vẫn còn xa. Khi thấy xe đẹp, nhà sang thì muốn chiếm lấy…Cho dù con người muốn hay không thì máu huyết vẫn luôn luân chuyển tuần hoàn trong cơ thể để mang dưỡng khí nuôi thân. Tim lúc nào cũng đập cho dù chúng ta không muốn sống. Vậy thân và vọng tâm làm chủ Ta chớ đâu phải Ta làm chủ con người của Ta. Vì thế nếu Ta không làm chủ được mình thì chính Ta là vô ngã. Đã không làm chủ được mình thì sự sống chết vô thường của con tạo làm sao mình làm chủ được. Do đó mới gọi là vô thọ giả.

Sau đó, trưởng giả tử Bảo Tích mới bạch với Phật rằng:

Bạch Thế Tôn! Năm trăm trưởng giả tử nầy đã từng phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề. Cúi mong Thế Tôn nói cái hạnh cõi Phật thanh tịnh của các vị Bồ-tát và xin Phật dạy cho chúng con trên đường tu hành muốn xây dựng cho mình cõi Phật thanh tịnh thì phải làm sao?

Phật dạy rằng:

Này Bảo Tích! Tất cả chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát. Tại sao? Bởi vì Bồ-tát dựa trên công hạnh giáo hóa chúng sinh mà có được cõi Phật thanh tịnh. Tùy sự điều phục chúng sinh mà có cõi Phật thanh tịnh. Tùy sự bồi dưỡng trí tuệ cho chúng sinh mà có được cõi Phật thanh tịnh. Tùy sự gieo trồng Phật chủng cho chúng sinh mà Bồ-tát có được cõi Phật thanh tịnh.

– Này Bảo Tích! Bồ-tát có được cõi Phật thanh tịnh là dựa trên công hạnh làm lợi lạc cho chúng sinh. Cũng ví như người muốn xây cất lâu đài phải xây nền đổ móng trên đất vậy. Nếu không có đất, không thể nào xây lâu đài được. Lại cũng ví như hoa sen. Hoa sen không mọc trên đỉnh núi đá cao trơ trọi mà sen phải mọc và trổ hoa từ chốn bùn lầy.

Các vị Bồ-tát là những bậc đã giác ngộ, nhưng vì chúng sinh còn đau khổ nên các ngài tự nguyện ra vào trong ba đường lên xuống trong sáu cỏi để cứu độ chúng sinh thấy con đường giải thoát giác ngộ chớ không mong cầu Phật quả để hưởng an lạc Niết bàn cho riêng mình vì đối với họ Bồ-tát và chúng sinh chẳng phải hai nhưng là Một tức là Bất nhị. Bồ-tát lấy Lục độ ba-la-mật làm nền tảng căn bản cho hành động. Phương châm vẫn là vì lợi ích chúng sinh chớ chẳng phải cho riêng mình. Các Ngài làm việc với tâm vô cầu, vô chứng đắc. Các Ngài làm việc không mệt mỏi với tâm vô phân biệt vì các Ngài không còn thấy thế gian và các Ngài có sự sai khác nữa. Bồ-tát không còn chấp trước và họ lúc nào cũng tự tại bởi vì các Ngài luôn làm việc với tinh thần Vô Ngã (Egolessness) tức là không còn thấy mình làm và cũng không còn thấy cả việc họ đang làm tức là vô ngã sở. Như vậy, cõi Phật thanh tịnh của chư Bồ-tát là vì lợi ích chúng sinh mà tác tạo chớ không phải vì mình thụ hưởng mà làm ra. Ví như có người phát tâm xây một ngôi chùa. Nếu xây ngôi chùa vì muốn có chỗ cho tăng ni tu tập và đại chúng có nơi học hỏi Phật pháp để thấy con đường giải thoát giác ngộ thì đây là việc làm của Bồ-tát. Còn nếu xây chùa để được người khen tặng thì là việc làm của phàm phu. Dĩ nhiên không có công đức chi cả. Chính vua Lương Võ Đế của Trung Hoa ngày xưa là một Phật tử tại gia đã thọ Bồ-tát giới và xây trên 480 ngôi chùa nhưng việc làm của nhà vua là vì bản ngã chớ không nhất thiết vì lợi ích cho chúng sinh nên đây không phải là hành động của Bồ-tát. Vì Bồ-tát lấy chúng sinh làm đối tượng và làm việc vì chúng sinh cho nên nếu chúng sinh còn trong cõi Ta-bà uế độ thì Bồ-tát sẽ nhận thế giới Ta-bà làm cõi Phật của mình để tùy duyên hóa độ. Dù lãnh lấy cõi Phật nào cũng đều vì lợi ích của chúng sinh vì thế chỉ khi nào độ hết chúng sinh thì các Ngài mới thành Phật.

Phật lại dạy rằng:

– Này Bảo tích! Ông nên biết Bồ-tát xây dựng cõi Phật cho mình bằng:

  • Trực tâm là lòng ngay thẳng, chân thật, không dối trá vì mọi ý tưởng, lời nói cũng như hành động đều hợp với chân lý. Mà con đường đưa đến chân lý là Bát chánh đạo.
  • Thâm tâm là có đầy đủ tất cả công đức lành cũng vì làm việc lợi ích cho chúng sinh. Vì thế Thâm tâm là cái tâm tạo ra nhiều mầm, nhiều nhân tốt cho nên thâm tâm chính là tịnh độ của Bồ-tát. Người phát thâm tâm thì luôn bỏ Tướng sinh diệt, giả dối bên ngoài để thấy được bản Thể chân thật tức là thấy được Phật bên trong.
  • Bồ-đề tâm. Khi đã có Trực tâm và Thâm tâm thì người tu theo đại thừa cần phát nguyện theo Bồ-đề tâm có nghĩa là quyết chí tu hành đến chỗ giải thoát giác ngộ viên mãn tức là thành Phật. Khi phần tự giác đã xong thì người phát Bồ-đề tâm phải quay lại để dẫn dắt chúng sinh cùng thấy con đường giải thoát mà tìm sự giác ngộ cho chính họ. Như vậy trực tâm là cánh cửa bước vào đạo, Thâm tâm là những công đức, là công dụng ở trong đạo và Bồ-đề tâm là tức là giác ngộ. Vậy ba hạnh Trực tâm, Thâm tâm và Bồ-đề tâm liên hệ mật thiết với nhau. Cái nầy bổ túc cho cái kia và thiếu một thì không thành Phật đạo. Do đó nếu chúng sinh phát tâm đại thừa có nghĩa là phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác thì sẽ được sanh về cõi Phật thanh tịnh đó.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.