Giảng Giải Kinh Duy Ma Cật – Chương I

Thêm nữa, dựa theo Duy Thức Luận, khi chúng sinh chứng quả vị Đẳng giác tức là được giác ngộ hoàn toàn có nghĩa là đạt được Hậu Đắc Trí thì tám thức sẽ chuyển thành bốn trí. Vậy tiến trình nầy diễn biến như thế nào?

1)Trực tâm là công phu tu hành để chuyển năm thức đầu tiên là Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức và Thân thức thành ra “Thành Sở Tác Trí” tức là trí tuệ có năng lực nhận thức cùng khắp và rất thần diệu khiến cho các việc làm được thành tựu chân chánh tốt đẹp.

2)Thâm tâm là công phu tu hành để chuyển thức thứ sáu là Ý Thức thành ra “Diệu Quan Sát Trí” tức là trí tuệ có năng lực quan sát và nhận xét đúng với Chân lý để không còn mê vọng.

3)Bồ-đề tâm là công phu tu hành để chuyển thức thứ bảy Mạt-Na-Thức thành ra “Bình Đẳng Cảnh Trí” tức là cái trí tuệ sáng suốt để phá hết chấp ngã, chấp pháp và nhận thức được tính bình đẳng và vô ngã của vạn pháp và thức thứ tám A-Lại-Da-Thức thành ra “Đại Viên Cảnh Trí” tức là trí tuệ sáng suốt như tấm gương lớn và tròn đầy có thể soi chiếu cùng khắp vũ trụ bao la vô cùng vô tận như biển cả chơn như.

Hơn nửa, chúng sinh tu theo Bồ-tát đạo cần phải thực hành Lục độ Ba-la-mật bởi vì:

  • Bồ-tát xây dựng cõi Phật bằng việc làm Bố Thí cho nên khi thành Phật họ có hạnh xả ly viên mãn.
  • Bồ-tát xây dựng cõi Phật bằng công đức Trì Giới cho nên khi thành Phật họ có được thập thiện nghiệp đạo viên mãn.
  • Bồ-tát xây dựng cõi Phật bằng hạnh Nhẫn Nhục cho nên khi thành Phật có đủ 32 tướng đẹp trang nghiêm.
  • Bồ-tát xây dựng cõi Phật bằng sức Tinh Tấn tu hành cho nên khi thành Phật họ luôn phát triển công đức lành.
  • Bồ-tát xây dựng cõi Phật bằng Thiền Định cho nên khi thành Phật tâm hằng thanh tịnh Niết bàn.
  • Bồ-tát xây dựng cõi Phật bằng Trí Tuệ cho nên khi thành Phật, cõi nước chỉ có chúng sinh chánh định.

Ngoài ra Bồ tát xây dựng cõi Phật bằng Tứ Vô Lượng Tâm cho nên khi thành Phật thì Từ, Bi, Hỷ, Xả thành tựu viên mãn. Bồ-tát tu hành Tứ Nhiếp Pháp để có đầy đủ chánh pháp như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự để hóa độ chúng sinh. Bồ-tát cũng khéo dùng mọi Phương Tiện để tùy duyên mà độ sanh.

  • Bồ-tát cũng xây dựng cõi Phật bằng 37 Phẩm Trợ Đạo cho nên khi thành Phật các pháp như Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi và Bát Chánh Đạo được hạnh trì viên mãn.
  • Sau cùng Bồ-tát nếu làm được công đức gì đều đem Hồi Hướng cho tất cả chúng sinh đồng thành Phật đạo.

Đức Phật một lần nữa đã giới thiệu rất nhiều phương pháp tu hành để chúng sinh tùy theo căn cơ và ý nguyện mà chọn lựa. Căn nhà giác ngộ thì có tám vạn bốn ngàn cánh cửa để vào do đó chúng sinh muốn chọn pháp môn nào thích hợp thì vẫn là chánh pháp. Bởi vì tất cả các pháp đều là Phật pháp hay các pháp vốn không hai tức là Bất nhị.

Nhưng muốn thực hiện tất cả các hạnh lành viên mãn, Bồ-tát phải khởi đầu bằng trực tâm tức là cái tâm ngay thẳng, chân thật, không dối trá mà làm việc lợi ích cho chúng sinh. Vì tất cả việc làm của Bồ-tát là vì chúng sinh và cho chúng sinh nên Bồ-tát tạo ra vô lượng công đức tức là nhân lành, là thâm tâm. Do có thâm tâm mà Bồ-tát điều phục tất cả ý thức của mình và làm mọi việc lành hóa độ chúng sinh để lãnh lấy cõi Phật thanh tịnh. Do cõi Phật thanh tịnh mà thuyết pháp thanh tịnh. Do thuyết pháp thanh tịnh mà trí tuệ thanh tịnh. Do trí tuệ thanh tịnh mà tâm thanh tịnh. Do tâm thanh tịnh mà có tất cả công đức thanh tịnh. Vì thế nếu Bồ-tát muốn được cõi Phật hay tịnh độ thanh tịnh thì các Ngài phải giữ tâm thanh tịnh.

Như vậy tâm thanh tịnh là nhân mà có cõi Phật hay Tịnh độ thanh tịnh chính là quả của nó. Cùng ý nghĩa đó nếu tâm mình không tịnh, còn chứa đầy phiền não nhiễm ô thì cõi Phật làm sao mà tịnh được? Vì vậy nếu chúng sinh muốn nguyện vãng sanh về cõi Tịnh độ mà không lo thanh lọc cho tâm được tịnh thì tìm đâu ra cõi Tịnh độ trong càn khôn vũ trụ nầy?

Bồ-tát có tinh tấn tu hành, có xả thân vào đời làm vô lượng công đức để được tự giác và giác tha nhưng cuối cùng cũng trở về với Bản tâm thanh tịnh. Chúng sinh vì bị màng vô minh che lấp và chạy theo trần cảnh ô nhiễm nên sống trong điên đảo khổ đau mà lầm tưởng tâm vọng tưởng là chân tâm. Nay thức tỉnh mới biết Tâm vốn không hai tức là Bất nhị thì lúc nào cũng thanh tịnh. Đối với phàm nhân vì tâm còn phân biệt tốt xấu, lành dữ, thiện ác …và còn chấp ngã, chấp pháp nên tâm không thanh tịnh. Đến khi tu hành đạt tới tâm vô phân biệt có nghĩa là không làm điều xấu xa, bất thiện thì từ đây những ý nghĩ, lời nói và hành động sẽ là tốt, là thiện. Tâm không còn chấp ngã, chấp tướng thì tâm sẽ trở về với tự tánh thanh tịnh ban đầu. Cũng như khi chúng sinh mới trì tam quy, thọ ngũ giới nên lúc nào cũng cảnh giác đề phòng để khỏi phạm giới mà gây nhân bất thiện. Còn Bồ-tát với tâm thanh tịnh thì họ sống ung dung tự tại mà không bao giờ phạm giới cả. Tại sao? Vì là phàm nhân tức là Tâm còn phân biệt thiện ác, tốt xấu nên con người lúc nào cũng canh chừng mọi ý nghĩ, cẩn thận từng lời nói và soi xét tất cả việc làm để tránh gây ra ác nghiệp. Nhưng các vị Bồ-tát vì tâm đã thanh tịnh nên mọi việc đều lành, mọi hành động đều thiện, mọi lời nói đều tốt và hợp với Chân lý mà khỏi cần phân biệt thiện ác gì cả.

Một điểm đặc thù khác khi đạt được tâm thanh tịnh là tâm bình đẳng. Chúng ta là phàm nhân nên bị màng vô minh che lấp khiến tâm phân biệt mới có thân sơ, cao thấp, giàu nghèo, sang hèn, khinh trọng… Vì tâm còn phân biệt nên con người lấy thân bỏ sơ nên bám víu những gì của mình và thuộc về mình tức là chạy theo chấp Ngã và Ngã sở. Và vì tâm còn phân biệt nên con người chạy theo hình Tướng tạm bợ bên ngoài như thấy có cao có thấp nên kính trọng người cao và chê kẻ thấp, có nghèo có sang nên du nịnh kẻ giàu sang và xa lánh người nghèo khó, có tốt có xấu nên ham chuộng cái đẹp giả tạm bên ngoài và đau khổ buồn phiền khi thấy mình già mình xấu đi, có vui có buồn nên thích vui và sợ buồn…Đây cũng tại vì con người còn chấp Pháp mà ra. Đó là tất cả những nguyên nhân gây ra phiền não khổ đau và cũng là nguồn gốc của sinh tử luân hồi. Tại sao? Vì nếu con người còn chấp Ngã tức là còn thấy thân nầy là thật nên cố bám víu vào nó. Vì lầm tưởng thân nầy là thật, là của Ta nên lo sợ, đau khổ khi thấy thân hoại. Cho dầu con người có bảo trì, bồi dưỡng cách mấy thì thân giả huyễn cũng không thoát ra khỏi cảnh sinh lão bịnh tử của luật vô thường và chắc chắn một ngày nào đó tấm thân tứ đại nầy cũng sẽ trở về với cát bụi mà thôi. Cũng vì lầm tưởng thân nầy là thật nên con người mới tạo tác, giữ gìn những tài sản, vật dụng để cung phụng cho thân. Có một thì muốn mười, chạy theo tham cầu ái dục cho nên phiền não khổ đau cũng vì thế mà phát sinh mạnh. Nhưng Tâm Kinh đã khẳng định rằng:”Ngũ uẩn giai không” có nghĩa là thân nầy không thật. Vì thế thân là giả huyễn, là vô ngã tức là Không thì nó sẽ trở về với cái Không tức là cát bụi còn cái Có mà con người chắc chắn sẽ mang theo là những chủng tử của nghiệp để cột chặt họ vào vòng sinh tử luân hồi. Bồ-tát khi tâm đã thanh tịnh thì họ xóa tan các biên giới về nhị nguyên nên tất cả đều bình đẳng. Không còn thân-sơ vì tất cả mọi người đều là chúng sinh tức là Bất nhị. Không còn khinh nghèo khó trọng giàu sang, không còn thấy cao, thấy thấp vì các Ngài đã lìa bỏ Tướng sinh diệt giả dối bên ngoài mà chỉ thấy bản Thể thanh tịnh bên trong. Đó là Phật tánh, là chơn như. Khi tâm đã thanh tịnh thì mười phương quốc độ, chúng sinh, trần cảnh…đều thanh tịnh hết. Tại sao? Vì tất cả thế gian, vũ trụ, muôn sinh vạn vật, Trời, Phật, Thánh, Thần, A tỳ, súc sanh, địa ngục…đều do tâm tạo. Do đó cứ mỗi giây, mỗi phút chúng sinh sống một trong thập pháp giới là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, Thần, Trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật. Vì thế cuộc sống thanh tịnh thì do ta mà điên đảo khổ đau thì cũng do tâm ta. Cho nên kinh mới có câu:”Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Do đó nếu tâm thanh tịnh thì tất cả những gì do tâm tạo đều thanh tịnh hết. Điều nầy chính kinh Hoa nghiêm cũng xác định:

Ưng quán pháp giới tánh

Nhất thiết duy tâm tạo

Dịch là:

Nên quán tánh pháp giới

Tất cả đều do tâm tạo.

Thật vậy, Tâm là cội nguồn của chư Phật, là biển của muôn pháp và là đất tánh của chúng sinh. Đất thì sanh ra muôn sinh vạn vật. Con người chúng ta vì mang thân tứ đại là từ đất sinh ra. Cây cỏ, cộng rau, cây lúa cho tới động vật, thực vật, khoáng vật cũng là do đất mà ra. Còn tâm thì bao gồm muôn pháp, trăm khéo ngàn hay, huyền cơ diệu lý, mỗi mỗi đều từ tâm dựng lập. Vì thế Tâm được ví như đất là vậy.

Như vậy cõi Phật Tịnh độ không phải cảnh ở ngoài mà chính phát xuất từ tâm. Vì thế kinh mới xác định rằng: “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh” có nghĩa là hễ tâm được thanh tịnh thì có cõi Phật thanh tịnh là vậy.

Lúc bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất khởi ý hoài nghi rằng:

– Nếu tâm Bồ-tát thanh tịnh thì có cõi nước Phật thanh tịnh. Vậy Đức Thế Tôn khi xưa tu nhân, hành Bồ-tát hạnh có lẽ nào tâm không thanh tịnh hay sao mà cõi Phật ngày nay không thanh tịnh như thế nầy?

Phật biết ý niệm hoài nghi của ông Xá Lợi Phất, liền bảo:

– Xá Lợi Phất! Ông nghĩ thế nào? Mặt trời, mặt trăng há chẳng sáng sao? Thế mà những người mù có thấy đâu?

Xá Lợi Phất thưa:

– Bạch Thế Tôn! Mặt trời, mặt trăng vẫn sáng nhưng người mù không thấy là lỗi tại mắt họ mù.

Phật dạy tiếp:

– Nầy Xá Lợi Phất! Do vì tội chướng của chúng sinh làm cho họ không thấy cõi nước thanh tịnh trang nghiêm của Phật chứ không phải cõi nước của Phật không thanh tịnh trang nghiêm. Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật vốn thanh tịnh chỉ tại ông không thấy mà thôi.

Bấy giờ Trời Loa Kế Phạm Vương nói với ông Xá Lợi Phất:

– Ông đừng nghĩ như vậy. Không nên cho rằng cõi Phật của Đức Thích Ca Mâu Ni không thanh tịnh. Chính tôi thấy cõi Phật của thế giới Ta-bà nầy thanh tịnh cũng như cung Trời Tự Tại và cũng như cõi nước của chư Phật trong mười phương.

Ông Xá Lợi Phất nói:

– Sao tôi thấy cõi nầy toàn gò nỗng, hầm hố, chông gai, sỏi sạn, đất đá, núi non, nhơ nhớp dẫy đầy như thế?

Ông Loa Kế Phạm Vương thưa rằng:

– Đấy là do tâm Ngài có cao có thấp không nương theo trí tuệ của Phật nên thấy cõi nầy không thanh tịnh đó thôi. Thưa Ngài xá Lợi Phất! Bồ-tát nhìn thấy tất cả chúng sinh bằng cái thấy bình đẳng. Phát xuất từ thâm tâm thanh tịnh và xử dụng trí tuệ thanh tịnh thì Ngài sẽ thấy được cõi Phật nầy thanh tịnh.

Khi ấy Phật lấy ngón chân nhấn xuống đất, tức thì cõi Tam thiên đại thiên thế giới liền hiện ra bao nhiêu trăm nghìn thứ trân bảo trang nghiêm rực rỡ, như cõi Vô Lượng Công Đức Bảo Trang Nghiêm của Phật Bảo Trang Nghiêm. Tất cả đại chúng khen ngợi chưa từng có và đều thấy mình ngồi trên tòa sen báu.

Phật bảo Xá Lợi Phất:

Ông hãy xem cõi Phật đây có trang nghiêm thanh tịnh?

– Bạch Thế Tôn! Ông Xá Lợi Phất thưa: Đúng vậy. Việc nầy từ trước đến nay con chưa từng thấy và cũng chưa từng nghe.

Phật dạy rằng:

– Này xá Lợi Phất! Cõi nước Phật của ta thường trang nghiêm thanh tịnh như thế. Chỉ vì con người nghiệp chướng nặng nề, phước đức mỏng manh mà thấy toàn những cảnh bất tịnh nhơ xấu. Cũng như số chư Thiên cùng thọ dụng một bát quý đựng cơm, vậy mà tùy phước đức của mỗi chư Thiên mà màu cơm và mùi hương có khác. Như thế, Xá Lợi Phất! Nếu tâm của người thanh tịnh sẽ thấy cõi nầy công đức trang nghiêm thanh tịnh.

Cũng ví như gia đình người hàng xóm: Người chồng thì tâm hồn đang bất an rối loạn, còn người vợ thì tâm hồn thư thả, thảnh thơi, tự tại. Như thế thì cùng sống dưới một mái nhà mà người chồng nhìn đâu cũng thấy bực bội, ai nói cái gì cũng không thấy vui. Ngược lại thì người vợ nhìn đâu, thấy đâu cũng là mái ấm gia đình. Do đó vui tươi hay bực bội là bởi tự tâm cho nên nếu tâm mình bực bội thì cho dù cảnh như thế nào vẫn thấy bực bội, còn nếu tâm mình an vui tự tại thì cảnh nào cũng thấy thoải mái, vui tươi.

Vì thế mà thi hào Nguyễn Du có câu:”Vui xuân vui khắp phương trời, buồn xuân riêng để cho người tương tư” hay “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Muốn được tâm thanh tịnh thì con người phải chuyển Tâm, chuyển lối nhìn, lối thấy biết về nhân sinh vũ trụ. Khi thấy mình không thật, người và vạn vật vũ trụ cũng không thật thì tâm không còn dính mắc. Từ đó lòng Tham-Sân-Si, Mạn, Nghi cũng giảm rất nhiều. Tất cả của cải vật chất trên thế gian nầy thật ra chỉ là những phương tiện giúp cuộc sống con người được dễ dàng vì khi ra đi ngay cả cái thân mà ta yêu mến cũng phải trả lại cho cát bụi thì làm sao giữ được những thứ vật chất giả tạm nầy! Cứu cánh của cuộc sống phải là cái gì cao cả, huyền diệu hơn. Khi con người mở rộng tâm Bồ-đề, thực hành Lục độ vạn hạnh thì tâm rất thanh thản, an vui và tự tại. Do đó một khi tâm bất an thì tuy thế giới bên ngoài huy hoàng rực rỡ mà ta vẫn thấy không vui. Ngược lại nếu tâm đã tịnh thì cho dù bất cứ thế giới bên ngoài như thế nào, cho dù ở nhà, ở chùa, ở chợ, ở công sở…con người vẫn thấy an vui, hạnh phúc vì niềm hạnh phúc nầy phát xuất từ trong nội tâm và lan tỏa ra ngoài. Hạnh phúc nầy mới là vô giá.

Cho nên Xuyên Thiền Sư cũng có câu:

Thế giới bao nhiêu vật hữu hình

Tu-di sừng sựng cũng hư danh

Dầu cho người chỉ muôn điều Có

Ta nói đều Không lý mới minh.

Khi Đức Phật thành đạo dưới cội Bồ-đề, ngoài chứng được Tam Minh: Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh và Lậu Tận Minh Ngài còn chứng được lục đại thần thông. Trong số đại đệ tử của Phật không ai giỏi thần thông bằng tôn giả Mục Kiền Liên, nhưng thần thông đâu có thắng nghiệp lực nên chính tôn giả cũng bị bọn ngoại đạo lăn đá đè chết. Đức Phật từng khuyên đệ tử không nên dùng thần thông mà chỉ dùng Chánh Pháp để thuyết phục cứu độ chúng sinh. Đối với Ngài, dùng thần thông cũng giống như các phái ngoại đạo vì khi thần thông hết thì lòng tin của con người cũng tan biến theo. Còn Chánh pháp thì ngàn đời bất biến. Vậy trong kinh khi Phật hiện thần thông lấy ngón chân nhấn xuống đất phải chăng là một ẩn dụ? Nên nhớ đây là kinh bất khả tư nghì nên không thể nghĩ bàn được.

Đức phật lấy ngón chân nhấn xuống đất có ý là muốn nhắn nhủ với chúng sinh phải đè ép cái tâm của mình xuống đừng cho vọng động nổi lên bởi vì tâm yên thì mới có Định. Tâm định thì trí tuệ sẽ phát sinh. Có trí tuệ thì tâm sẽ thanh tịnh và có cõi Phật thanh tịnh. Nhờ thần lực của Phật mà đại chúng đều thấy mình ngồi trên tòa sen báu, ý Phật muốn nói là trong tất cả chúng sinh ai ai cũng đều có Phật Tánh như nhau tức là đều có khả năng thành Phật, nhưng vì sống trong vô minh điên đảo nên chúng sinh phải chịu trầm luân nơi uế độ. Nếu con người biết thức tĩnh phá trừ vô minh vọng thức để thấy được Chân lý tức là làm cho tâm mình được thanh tịnh thì thế giới Ta-bà nầy sẽ biến thành cõi an vui Tịnh độ. Nhưng tại sao lại nhấn xuống đất? Đất là do chữ Địa nên đất là Tâm vì thế mới có danh từ Tâm Địa cho nên nói người nầy tâm địa tốt và người kia tâm địa xấu là vậy. Tất cả muôn sinh vạn vật có sinh tồn cũng do đất. Cho nên Đức Phật cũng dạy rằng:”Hãy học các hạnh của đất. Dù con người có dẫm đạp, đổ lên đất những thứ nhơ bẩn hôi tanh hay rưới xuống đất hương hoa thơm tho tinh khiết, đất cũng an nhiên không giận, chẳng mừng. Biết được như thế sẽ không còn bị mọi cảm thọ bám vào. Biết nhìn cảm thọ như đối tượng bị nhìn thay vì đồng hóa mình với cảm thọ thì sẽ luôn thanh thản an nhiên trước mọi sự”. Cây cỏ, ruộng lúa, hoa quả… cũng do đất sinh ra ví như những tư tưởng thiện ác, tốt xấu đưa con người lún sâu vào vòng sinh tử khổ đau hoặc hướng về cảnh giới giải thoát giác ngộ đều do Tâm tạo.

Đang lúc Phật hiện cõi nước trang nghiêm thanh tịnh và dạy về chân lý liễu nghĩa thượng thừa này, Bảo Tích và cùng năm trăm trưởng giả tử cùng thể nhập được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Tám vạn bốn nghìn người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, Đức Phật thâu nhiếp thần lực và thế giới Ta-bà trở lại trạng thái cũ, vẽ đẹp trang nghiêm thanh tịnh cũng biến mất.

Khi đã thấu hiểu giáo lý giải thoát giác ngộ tối thắng đại thừa và nghiệm chứng được cõi nước trang nghiêm thanh tịnh thì ông Bảo Tích và năm trăm trưởng giả tử đều chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô sanh là không còn còn sanh, còn diệt có nghĩa là thoát hẳn ra khỏi vòng sinh tử luân hồi. Pháp nhẫn là trí tuệ vô lậu có được là do tất cả những công đức tinh tấn tu hành. Vậy chứng vô sanh pháp nhẫn là phát huy được cái trí tuệ vô lậu để tâm được an trụ trong cái Thể bất sanh bất diệt, như như bất động và thoát ra khỏi vòng sinh tử trầm luân.

Phật bây giờ nhắc ngón chân lên khỏi mặt đất có nghĩa là nếu con người không còn đè chặt cái tâm xuống thì vọng thức mê lầm tha hồ dấy khởi. Tâm bây giờ không còn Định nửa cho nên cõi Thanh tịnh biến mất và thế giới bất tịnh, ô nhiễm hiện lại như xưa.

Phàm nhân và các vị Trời thường hay cầu cho mình đạt được các quả của Thanh Văn. Nhưng sau khi nghe Phật thuyết giảng thì họ đều biết rằng tất cả các pháp hữu vi là vô thường vì hàng Thanh văn chỉ bỏ được ngã chấp mà chưa phá được pháp chấp tức là họ vẫn còn thấy có pháp môn để tu và quả vị để chứng. Nay nhờ thần lực của Phật họ thấy tận mắt cảnh vô thường biến đổi. Đó là khi tâm thanh tịnh thì Ta-bà thành Tịnh độ và khi tâm bất an thì Tịnh độ thành Ta-bà cho nên tôn giả Xá Lợi Phất cùng tám ngàn Tỳ kheo không còn chấp pháp, bỏ hết mọi chấp trước và tâm ý được tự tại giải thoát. Vì thế mới có câu:

Ba vị Thanh Văn thoát nghiệp trần

Tới lui tìm đạo có sơ thân

Rõ ràng bốn quả nguyên không quả

Hóa độ thân Không tức Pháp thân

Khi đại chúng lãnh hội lời Phật dạy thì chắc chắn sẽ có kết quả khả quan. Người căn cơ thấp như tám vạn bốn ngàn chúng sinh có quả vị an vui tự tại và phát tâm vô thượng Bồ-đề, cao hơn thì có ba vạn hai ngàn người và Trời chứng được Sơ quả (nếu theo Tiểu thừa, Nam Tông, sơ quả là Tu Đà Hoàn còn Đại thừa, Bắc tông, Sơ quả là Bồ-tát Sơ Địa tức là quả thấp nhất trong mười địa vị của Bồ-tát) và tám ngàn Tỳ kheo thì chứng được quả A-la-hán. Cao hơn nữa có ông Bảo Tích và năm trăm trưởng giả tử chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn là có trí tuệ vô lậu và thoát ly ra khỏi sinh tử luân hồi.

Tóm lại, đoạn kinh nầy muốn nhấn mạnh vai trò của người Phật tử tại gia mà tiêu biểu nhất là ông Bảo Tích và năm trăm trưởng giả tử là những cư sĩ tại gia nhưng tất cả luôn giữ gìn giới hạnh, phát tâm Bồ-tát đại thừa. Tuy sống trong dục lạc thế gian nhưng giữ Tâm ngay thẳng, noi theo Bồ-tát đạo làm việc quên mình vì người để gầy dựng vun bồi công đức. Nếu hàng xuất gia đắc được Thánh quả thì hàng Phật tử tại gia cũng chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn tức là thoát ly ra khỏi sinh tử luân hồi. Một điểm đặc thù khác của đoạn kinh nầy Đức Phật muốn xác định rõ ràng là không nhất thiết phải vào chùa mới là tu, mà chúng sinh ở đâu tu cũng được, chỗ nào cũng là đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh và gặp hoàn cảnh nào tu cũng tốt. Cốt tủy của chân lý nầy là chúng sinh chỉ cần chuyển Tâm chớ không chuyển cảnh bởi vì một khi tâm đã tịnh thì có quốc độ hay cõi Phật tịnh. Vì thế ca dao Việt Nam mới có câu:

Thứ nhất là tu tại gia,

Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa

Tác Giả: Lê Sỹ Minh Tùng

Trang Chủ

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.