Giảng Giải Kinh Duy Ma Cật – Chương III – A Nan

Chương Thứ Ba

Phẩm Đệ Tử

(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)

Hàng Thanh Văn

1)  Tôn giả A Nan (Ananda)

Nói về Như Lai Bệnh

A Nan là anh em cô cậu với Đức Phật. Ông là con của Bạch Phạn Vương (Amitodana) là em của vua Tịnh Phạn. Vì ngày ông sinh ra đem lại niềm hoan hỷ nên được đặt tên là Khánh Hỷ (A Nan). Sau khi thành đạo, Đức Phật về lại cung thành Ca Tỳ La Vệ thăm lại gia đình và cảm hóa và khuyến khích những người trong dòng họ Thích Ca xuất gia tu đạo. Khi nhân duyên đã đến, A Nan cùng anh ruột là Đề Bà Đạt Đa và năm vị vương tử khác là A Na Luật, Kiếp Tân Na, Bà Sa, Bạt Đề, Nan Đề đồng lén bỏ nhà mà xuất gia theo Phật và ông là người trẻ tuổi nhất trong số những vị nầy. A Nan là người có tướng mạo trang nghiêm và trí nhớ phi thường ngay cả Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát còn phải khen ngợi ngài như sau:

Tướng như trăng thu đầy
Mắt biết tợ sen xanh
Phật pháp rộng như bể
Đều rót vào tâm A 
Nan.

Khi nói về A Nan thì không ai quên được câu chuyện nàng Ma Đăng Già trong Kinh Lăng Nghiêm. Vì có tướng mạo thanh tú nên nàng Ma Đăng Già đem lòng yêu thương mà dùng tà thuật mê hoặc. Đức Phật biết được bèn sai Văn Thù Bồ-tát đem bài thần chú Thủ Lăng Nghiêm đến giải nạn cho A Nan. Nội dung Kinh Lăng Nghiêm là Phật chỉ dạy cho chúng sinh ngộ được Chơn tâm. Trước khi dạy về Chơn tâm, Phật gạn hỏi A Nan bảy lần về nơi trụ của tâm. Vì tâm quá khứ đã diệt, tâm tương lai chưa đến còn tâm hiện tại thì quay cuồng thì làm sao tìm tâm cho được. Mà tâm quay cuồng tức là tâm điên đảo, mê lầm, vọng thức tức là vọng tâm. Khi vọng tâm biến mất thì chơn tâm mới hiện bày cũng như mây tan thì trời sáng vậy thôi. Có chơn tâm thì tâm được thanh tịnh tức là Phật tánh, là Bản Lai Diện Mục, là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, là Tri Kiến Phật vậy.

A Nan thỉnh cầu Phật nhiều lần để cho phép phái nữ được xuất gia vì thế dưỡng mẫu Ma Ha Ba Xà Ba, công chúa Da Du Đà La và nhiều mệnh phụ phu nhân khác là những Ni cô đầu tiên trong tăng đoàn của Đức Phật.

Cả đời A Nan bị rắc rối cũng vì đàn bà con gái cho nên trước khi nhập diệt Đức Phật có dặn rằng:”Nếu bắt buộc phải tiếp xúc với nữ phái thì nên xem người già như mẹ, người lớn như chị và người nhỏ như em thì ông sẽ giữ được chánh niệm’.

Khi Phật được 55 tuổi, các đệ tử Tỳ Kheo thấy sức khỏe của Ngài càng ngày càng yếu nên quyết định chọn một thị giả túc trực lo cho Đức Phật. Mặc dù có rất nhiều người tình nguyện, nhưng Đức Phật dành việc nầy cho A Nan. Vì có liên hệ họ hàng với Phật nên ông muốn tránh sự dị nghị được Phật ưu đãi mà đối xử đặc biệt với mình nên ông xin nhận trách nhiệm với tám điều thỉnh cầu:

1) Đức Phật không ban cho ông những bộ y do thí chủ cúng cho Phật.

2) Đức Phật không ban cho ông những đồ ăn do thí chủ cúng cho Phật.

3) Đức Phật không cho phép ông cùng ở trong một tịnh thất.

4) Đức Phật không cho phép ông đến nơi nào mà thí chủ thỉnh Phật.

5) Đức Phật sẽ hoan hỷ đến nơi nào mà thí chủ thỉnh ông.

6) Đức Phật cho phép ông tiến dẫn khách đến yết kiến Phật.

7) Đức Phật cho phép ông bạch hỏi mỗi khi có điều gì nghi ngại.

8) Đức Phật sẽ hoan hỷ giảng giải lại những bài Pháp mà Phật giảng trong lúc ông không có mặt tại đó.

Nhờ nhân duyên nầy mà A Nan trong suốt 25 năm làm thị giả đã được học rộng nghe nhiều và là người duy nhất có thể nhớ lại 84,000 bài kinh mà trước đây Đức Phật đã thuyết giảng. Vì thế trong hàng Thanh Văn ông nổi tiếng là đệ nhất đa văn.

Mặc dù học rộng, nghe nhiều, nhớ dai nhưng A Nan chưa chứng Thánh quả trong lúc Đức Phật còn sanh tiền. Mãi ba tháng sau khi Đức Phật nhập diệt, trong lần kết tập kinh điển lần thứ nhất, ông không được mời tham dự vì chưa chứng quả A La Hán. Ngay chiều hôm ấy, A Nan nỗ lực tu tập, trầm tư mặc tưởng, buông bỏ tận cùng và đến nửa đêm thì khai ngộ, chứng quả. Ông bay thẳng vào đại hội và được đề cử đọc Kinh Tạng. Những kinh như Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhứt A Hàm và Kinh Pháp Cú đều do chính tôn giả tụng lại. Tôn giả nhập diệt lúc 120 tuổi.

Đức Phật gọi ông A Nan và bảo:

–  Này A Nan! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Ông A Nan thưa:

–  Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm trưởng giả. Bởi vì trước đây, có lần Như Lai trong người hơi có chút bệnh, phải cần dùng sửa. Con mang bình bát đến trước nhà của một đại Bà La Môn để xin.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có ba thân là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.

1) Pháp thân (Dharmakaya) là pháp giới thanh tịnh của các Đức Như Lai lan tỏa trong khắp không gian làm sở y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân. Pháp thân thì luôn thường trụ, bất sinh bất diệt cũng được gọi là Pháp giới tánh, Như Lai Tạng…Phật lấy Pháp Tánh Chân Như làm thân nên gọi là Pháp thân. Pháp thân là chỗ sở y chứa tất cả công đức trong Pháp giới. Vì Pháp thân là thường trụ nên Pháp thân ở khắp mọi nơi. Cho dù Phật nhập thế cứu độ chúng sinh thì Pháp thân cũng không tăng hay Phật có xuất thế thì nó cũng không giảm, lúc nào cũng vậy mà thôi. Cái Pháp thân nầy Phật và chúng sinh đều có như nhau, nhưng ở Phật thì nó sáng suốt chiếu soi rực rỡ còn ở chúng sinh thì nó bị vô minh che mờ nên không hiễn lộ. Pháp thân chính là cái mà con người sẽ trở về sau khi diệt hết vô minh phiền não để phát huy trí tuệ sẳn có của mình. Vậy Pháp thân chính là cội nguồn, là Bản Thể của tất cả muôn sinh vạn vật. Đây chính là Bản Lai Diện Mục, là Phật tánh có sẳn trong tất cả mọi người.

2) Báo thân (Sambhogakaya) là thân tốt đẹp do công phu tu hành trãi qua bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp mà có. Vì thế mà Đức Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp rực rỡ là vậy. Báo thân còn được gọi là tự thọ dụng thân.

Nếu chúng sinh đoạn trừ mọi vô minh phiền não thì tâm được hoàn toàn thanh tịnh. Cái thanh tịnh an lạc tự tại nầy chỉ có người đó biết và hưởng được còn người khác không hề cảm nhận hay san sẻ được thì cái quả thanh tịnh an nhàn nầy là tự thọ dụng thân. Cũng như uống một tách trà thơm ngon thì chỉ người uống trà mới biết được hương vị thơm ngon như thế nào mà thôi. Do đó nếu chúng ta bớt được một phần vô minh phiền não thì có được một phần thanh tịnh tức là có được một phần tự thọ dụng thân.

Còn Báo thân của chúng sinh thì gọi là Karmakaya tức là thân nầy là do quả nghiệp của tiền kiếp tạo thành. Muốn có thân thể khỏe mạnh sống lâu thì đừng bao giờ sát sinh. Muốn có giọng nói thanh tao trong trẻo thì đừng nên vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan trang, đẹp đẻ thì đừng nghĩ tới tà dâm. Muốn gia đình được ấm no hạnh phúc thì đừng trộm cướp gian tham.

3) Ứng thân hay biến hóa thân (Nirmanakaya) Chư Phật do trí thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ứng thân của Phật trong cõi Ta bà nầy. Vì Ứng thân là thân thị hiện nên phải ảnh hưởng bởi luật vô thường là sinh lão bệnh tử. Ứng thân cũng được gọi là tha thọ dụng thân.

Đối với Phật giáo thì báo thân hay tự thọ dụng thân có giá trị tuyệt đối vì chỉ có người được thức tỉnh giác ngộ mới hưởng được cái hương vị thanh tịnh an vui tự tại của giải thoát giác ngộ mà không một người nào khác có thể biết được. Khi chư Phật hay Bồ-tát thị hiện để hoằng dương đạo pháp thì chúng sinh có cơ hội học hỏi, tu sửa và sống theo Chân lý để tự mình giải thoát giác ngộ thì ứng thân để cứu độ chúng sinh ra khỏi bể khổ sông mê gọi là tha thọ dụng thân.

Tóm lại ba thân của Đức Phật là: Pháp thân là Thể, Báo thân là Tướng và Ứng thân là Dụng. Tuy nói ba mà là một, tuy một mà ba tức là một là tất cả và tất cả là một.

Ngài Thiền sư Xuyên Lão cũng có bài kệ rằng:

Ba Phật hình nghi chẳng phải chân
Con người trong mắt trước mặt xem
Nếu hay biết được trong nhà báu
Hoa núi chiêm kêu một dáng xuân
Ứng Phật, Hóa Phật đều không thật
>Bóng hình muôn thử thảy là quyền
Cái gì có tướng đều hư vọng
Chân Phật không hình vốn tự nhiên.

Bấy giờ, trưởng giả Duy Ma Cật đến nói với con rằng:

– Thưa ngài A Nan! Ngài làm gì mang bình bát đến đứng đây sớm thế?

– Thưa cư sĩ! Như Lai trong người hơi có bệnh, cần phải dùng sữa nên tôi đến đây hóa duyên xin sữa cho Như Lai.

Ông Duy Ma Cật nói:

–  Thôi! Thôi! A Nan! Ngài đừng nói như vậy. Thân Như Lai là thân Kim Cương, các xấu ác đã hết, các cái thiện đã đầy đủ, còn có bệnh gì, còn có não gì?

Hãy im lặng và đi đi! Ngài nói như vậy là phỉ báng Như Lai đó. Đừng để cho người ngoài họ nghe được những lời bất kính đó! Đừng để cho các hàng chư Thiên đại oai đức và các Bồ-tát ở các cõi Tịnh độ khác nghe được những lời ấy!

Thưa ngài A Nan! Chuyển Luân Thánh Vương chỉ có chút ít phước đức mà còn không bệnh, huống chi Như Lai là thân Kim Cương hội tụ vô lượng phước đức!

Hãy đi đi, ngài A Nan! Đừng để chúng tôi phải chịu sự xấu hổ đó! Hàng ngoại đạo Phạm Chí họ nghe được những điều đó, họ sẽ nghĩ gì về một bậc thầy của chúng ta!

Bản thân một vị thầy có bệnh mà không thể tự cứu thì làm sao cứu bệnh cho ai? Ngài hãy âm thầm đi nhanh đi. Đừng để lộ ra cho người ngoài nghe biết!

A Nan! Ngài nên biết rằng: Thân của Như Lai là pháp thân, không phải thân do tư dục. Phật là bậc Thế Tôn vượt ngoài tam giới. Thân Phật vô lậu, vì các lậu đã hết. Thân Phật vô vi, không mắc vào các số lượng. Thân như thế thì còn có bệnh gì?

Khi tôn giả A Nan nói thân Như Lai hơi có bệnh là ông muốn nói về Ứng thân, tha thọ dụng thân hay biến hóa thân là thân có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Thân nầy là thân vô thường nên phải chịu sinh lão bệnh tử như tất cả mọi chúng sinh. Còn trưởng giả Duy Ma Cật lại nói về Pháp thân, là thân Kim Cương, bất sinh bất diệt thì làm sao có bệnh được. Ứng thân là thân sinh diệt thuộc về pháp hữu vi nên mới có bệnh. Còn Pháp thân là Chơn Không Diệu Tánh, là pháp vô vi, là vô lậu thì làm sao có bệnh tật được.

Con người sống trong thế gian gánh chịu trăm nổi phiền não khổ đau vì thế Phật mới thị hiện để khai thị cho chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến. Đức Phật đã dùng vô lượng phương tiện để trị vô lượng bệnh phiền não của chúng sinh vì thế mà Ngài được tôn xưng là Vô thượng Y Vương. Nhưng Vô thượng Y Vương là để trị tâm bệnh còn thân bệnh thì phải trị bằng thuốc men. Ông A Nan nói Như Lai có bệnh là ám chỉ Ứng thân. Mà Ứng thân thì do tứ đại hợp thành. Khi tứ đại hòa hợp thì yên ổn an vui còn khi tứ đại bất hòa thì sanh ra bệnh tật. Trong khi ông Duy Ma Cật nói thân của Đức Phật là Pháp thân chớ không phải là thân tư dục tức là thân mà không do tư tưởng ái dục duyên hợp mà thành.

Thân Phật vô lậu vì Đức Phật luôn làm việc thiện, không còn tạo nghiệp nên khỏi phải rơi rớt trong lục đạo luân hồi. Thân Phật vô vi vì tâm Đức Phật thường trụ Niết bàn nên cho dù không làm, không tạo tác mà vẫn an nhiên, tự tại bất sinh bất diệt. Thân Phật không mắc vào số lượng tức là không bị hạn chế bởi không gian và thời gian. Nếu là Ứng thân thì Đức Phật chỉ thọ có 80 tuổi và sống tại Ấn độ. Còn nói về Pháp thân thì thọ mạng bây giờ là vô cùng vô hạn. Vì Pháp thân bao trùm khắp mọi nơi và bất sanh bất diệt thì làm gì có tuổi mà nói. Không có thỉ mà cũng chẳng có chung, vô cùng vô tận. Vì thế nếu chúng sinh cảm nhận Pháp thân Phật thì ở đâu cũng có Phật và bất cứ lúc nào cũng có Phật trong tâm của chúng ta. Đây chính là Pháp thân Tỳ Lô Giá Na. Đức Phật A Di Đà có tuổi thọ dài vô lượng là ám chỉ Pháp thân vậy.

Nói về Sự Tướng tức là pháp hữu vi có sinh có diệt thì ông A Nan nói đúng vì thân của Đức Phật là Ứng thân. Còn nói về Bản Thể, là pháp vô vi bất sinh bất diệt, thanh tịnh bản nhiên thì ông Duy Ma Cật nói đúng vì thân Đức Phật bây giờ không còn là Ứng thân sinh diệt, có đau có bệnh mà là Pháp thân thanh tịnh bất sinh bất diệt thì làm gì có đau có bệnh.

Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Lúc đó con rất là xấu hổ. Nghĩ rằng con được hầu bên Phật há lại nghe lầm ư? Liền đó, con tự nghe có tiếng trong không trung vọng đến: A Nan! Lời cư sĩ như thế là đúng, nhưng vì Phật xuất hiện trong đời ngũ trược ác thế, thị hiện ra việc làm như vậy nhằm giáo hóa độ chúng sinh. A Nan! Ông hãy đi xin sữa, đừng có hổ thẹn!

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.