Thế Giới Cực Lạc – Phân tích ứng dụng kinh A Di Đà

Gương hạnh như vậy mang tính chia sẻ, mồi đèn phước báu giúp ta thắp sáng lên ngọn đèn công đức ở người khác. Nếu ta may mắn được cúng dường những người như thế thì phải lấy làm mừng. Những phẩm vật cúng dường của ta lại được cúng dường cho các chùa để làm từ thiện, phước của ta sẽ nẩy nở gấp nhiều lần từ một thành hai, từ hai thành mười, từ mười thành một trăm.

– Tôn giả Ca-lưu-đà-di nổi tiếng về giáo hóa. Cách thức giáo hóa của ngài rất đơn giản, đôi lúc ngài không nói hoặc chỉ nói vài câu pháp nhưng có thể trao cho người nghe chiếc chìa khóa mở kho tàng tâm linh. Người có khả năng giáo hóa thì chuyện đời cũng trở thành chuyện đạo, chuyện phàm tục vẫn có giá trị tâm linh. Dùng con mắt tuệ giác quan sát cuộc đời thì những gì trong cuộc đời này đều trở thành công cụ cho Phật pháp. Giá trị của cái nhìn giáo hóa nằm ở đấy.

– Tôn giả Kiếp-tân-na nổi tiếng là người có khả năng biết thiên văn, thấy rõ bản chất của vũ trụ, biết được sự sống ở các cõi, các loại hình ở con người, các loài động vật và ở các hành tinh xa xôi khác. Nhờ đó ngài dẫn dắt giúp cho người nghe hiểu được nguyên lý của nhân quả, như quy luật định đoạt bản chất của các kiếp sống hay các chủng loại khác nhau mà không có sự sắp đặt của thần linh, thượng đế.

– Tôn giả Bạt-câu-la là người có thọ mạng đệ nhất. Hầu như kiếp nào ngài cũng sống tối thiểu từ 100 tuổi trở lên. Trong thời đức Phật, ngài đã sống đến 160 tuổi, một hiện tượng quý hiếm trong bối cảnh địa dư của người Ấn Độ. Người Ấn Độ thường già trước tuổi, sống trên 60 tuổi là trông họ đã già nua lắm rồi. Thế Tôn sống được 80 tuổi được xem như là một ngoại lệ, mặc dù Ngài từng có sáu năm sống khổ hạnh ép xác, nếu là những người khác có lẽ đã bị chết yểu. Có được tuổi thọ như thế là nhờ Ngài tu tập công đức, có phước báu nhiều đời nhiều kiếp và tuổi thọ đó làm cho Ngài có sức sống mãnh liệt.

– Tôn giả A-nâu-lâu-đà có được thiên nhãn thông đệ nhất. Ngài có thể nhìn thẩm thấu không gian vật lý mà không gì có thể gián cách. Ngài nhìn xa thấy rộng và hiểu rõ các vấn đề sẽ diễn ra trong tương lai giống như các nhà tiên tri hay nhà thọ ký. Ngài phán đoán, góp ý một cách chính xác và đề ra giải pháp cho các vấn nạn trong nhiều tình huống phức tạp.

Đó là các vị đại A-la-hán tham dự trong pháp hội khi đức Phật giảng kinh A-di-đà. Bên cạnh đó còn rất nhiều vị đại Bồ-tát mà nổi tiếng nhất và siêu xuất nhất có bốn vị.

– Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi nổi tiếng về trí tuệ tương đương với ngài Xá-lợi-phất. Đây là trí tuệ dựa trên giáo nghĩa Đại thừa, hỗ trợ chiều sâu nhận thức, kết hợp đánh giá trên dữ liệu xã hội, văn hóa và tâm linh của bản địa. Người có trí tuệ sẽ làm cho đạo Phật luôn thích ứng với mọi thời đại và mọi nền tảng văn hóa tâm linh khác nhau.

– Bồ-tát A-dật-đa là một danh xưng khác của Bồ-tát Di-lặc, nổi tiếng từ bi rộng lớn, và Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi nổi tiếng về trí tuệ. Hai vị này là tay trái và tay phải của Thế Tôn, và được xem như đôi cánh chim mà các hành giả Phật giáo phải có, nếu không thì không thể cất cánh bay cao xa. Hai vị Bồ-tát này gợi lên con đường dấn thân hành đạo rất sâu sắc.

– Bồ-tát Càn-đà-ha-đề là vị Bồ-tát nổi tiếng về kiên trì dấn thân không ngừng nghỉ. Khi đã phát nguyện làm một Phật sự nào đó thì dù gặp phong ba trở ngại, chướng duyên, thị phi, chỉ trích, vu khống hoặc hãm hại, ngài cũng không bỏ cuộc nữa chừng; đã quyết tâm thì phải làm bằng được và làm một cách có kết quả, có nghệ thuật. Đó là lòng dung lượng, biểu tượng của sự kiên nhẫn, tinh tấn và nỗ lực không ngừng nghỉ của ngài.

– Bồ-tát Thường Tinh Tấn nổi tiếng tinh tấn trên lý tưởng đạo đức và tâm linh không hề gián đoạn. Bồ-tát này là biểu tượng của sự vươn lên và vươn lên mãi, thành tựu và thành tựu mãi không ngừng, cho đến khi nào không còn gì để tu tập. Đến lúc đó, hạnh nguyện Thường Tinh Tấn mới được kết thúc.

Sự có mặt của bốn vị Bồ-tát này gợi lên bốn đức tính là trí tuệ, từ bi, kiên nhẫn và tinh tấn. Đó là bốn biểu tượng của Phật giáo Đại thừa. Có lòng từ bi thì con đường dấn thân được mở ra. Có trí tuệ thì sự dấn thân sẽ không bị chi phối bởi tình cảm một chiều. Có kiên trì bền bỉ thì con đường dấn thân ấy mới vượt qua những gian truân, thử thách. Có tinh tấn hành trì mới đạt được kết quả ngày càng cao cho đến quả vị Phật .

Trời Đế Thích tượng trưng cho thượng đế của Ấn Độ giáo, là vị thần linh cao nhất của chủ nghĩa đa thần giáo. Bên cạnh đó, còn có Chư thiên là con người sống ở các hành tinh khác. Kinh Di Đà và các bản kinh Pàli có mô tả về sự giao lưu liên hành tinh, một bên là cõi Ta bà và một bên là cư dân của các hành tinh khác mà không cần đến các phi thuyền, đĩa bay hay các phương tiện hiện đại. Theo mô tả trong kinh, các vị này có phép thần biến và sự vận chuyển từ nơi mình sang cảnh giới Ta bà.

Đối tượng của pháp hội A-di-đà là các vị đại A-la-hán và các vị đại Bồ-tát tượng trưng cho tầm vóc tâm linh quan trọng của Phật giáo. Trong bản kinh ngắn gọn mà có đủ Bồ-tát và các A- la-hán, tiêu biểu là điều đáng quý, có khả năng khích lệ và hỗ trợ cho các hành giả tu tập pháp môn. Là các đại Bồ-tát và đại A-la-hán có trình độ tâm linh cao, mà vẫn đến để nghe pháp hội A-di-đà, huống hồ là chúng ta chẳng lẽ lại giãi đãi, xem thường?

Mặc dù có sự phân chia về tâm linh, có Bồ-tát và A-la-hán, nhưng các vị A-la-hán lịch sử trong thời đại của đức Thế Tôn tương đương với các đại Bồ-tát theo truyền thống Phật giáo Đại thừa. Tuy là những nhân vật lịch sử, các A-la-hán này đã hành đạo Bồ-tát từ lâu xa. Thành phần tham dự của kinh là Bồ-tát lịch sử và Bồ-tát của các hành tinh. Ta không nên dựa trên các bộ phái cho rằng A-la-hán kém chiều sâu hơn các vị Bồ-tát Đại thừa. Dù tên gọi và danh xưng khác nhau nhưng về mặt tâm linh, giá trị con đường dấn thân, hạnh nguyện vị tha và tiếp độ chúng sanh đều có giá trị và kết quả như nhau.

Triết lý của kinh này tuy đơn giản, nhưng về mặt thực hành thì từ kiếp này sang kiếp khác chưa chắc đã thành công. Những gì đơn giản nhất lại trở thành khó nhất. Nếu biết phương pháp hành trì sẽ có kết quả và giá trị cao.

CẢNH GIỚI TÂY PHƯƠNG

Sau khi giới thiệu đối tượng tham dự pháp hội, đức Phật đã trình bày  về cảnh giới Tịnh độ bằng một đoạn văn: “Bấy giờ Ngài bảo Xá-lợi-phất hướng về phương Tây khoảng mười muôn ức cõi nước của Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc, giáo chủ là Phật hiệu A-di-đà hiện đang thuyết pháp.”

Phương vị của Tịnh độ được mô tả thuộc về phía Tây, dĩ nhiên, đây là phía Tây của nước Xá Vệ, nơi bản kinhA-di-đà được tuyên thuyết. Phương vị lớn hơn có thể lấy hệ quy chiếu là đất nước Ấn Độ, và xa hơn nữa là hành tinh Ta bà. Không nên tìm sự tuyệt đối trong phương vị của vũ trụ, vì nó chỉ mang tính cách tương đối. Ví dụ, khi ta đang nhìn một ai đó thì có thể cho rằng người đó đang ở trước mặt ta, và khái niệm trước mặt ta chỉ là một khái niệm tương đối. Người đang quan sát ta thì ngược lại cho rằng ta đang ở trước mặt người ấy. Như vậy trong tình huống này là ai đang ở trước mặt ai? Khái niệm trước và sau chỉ là một giả định.

Không nên dựa vào phương vị vật lý để nhận định rằng không có thế giới Tây phương Cực Lạc vốn hiện hữu lâu dài và xa cách ta mười tỷ năm thái dương hệ. Thấy rõ  phương vị là tương đối thì ta không nên tranh luận, chấp trước về đông, tây, nam, bắc. Khi ngồi ở lầu một, ta có thể nói ta đang ngồi trên những người ở tầng trệt. Những người ở tầng trệt có thể nói họ đang ở trên những người ở tầng hầm. “Trên” là một khái niệm tương đối, tất cả những người ở tầng một, tầng trệt, tầng hầm được xem là những người đang sống ở dưới những người ở tầng hai, tầng ba, hoặc tầng bốn. “Trên” và “Dưới” cũng chỉ là tương đối. Trên và dưới của một vật lệ thuộc vào hệ quy chiếu.

Đức Phật đã giải thích cho ta về cấu trúc thời gian và không gian tương đối, giúp ta thấy phương vị là mặc định. Các hệ mặc định không có giá trị vĩnh viễn, thay đổi tùy theo góc độ và vị trí. Tính tương đối của thời gian được đức Phật mô tả tùy theo vị trí và múi giờ vật lý.

Kinh Lăng Nghiêm mô tả thời gian vật lý giữa cõi Ta bà và Tịnh độ cách biệt nhau khá lớn. Một kiếp ở cõi Ta bà này chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi Tịnh độ. Nếu tính theo thời lượng kiếp thì rõ ràng là suốt mấy mươi năm ở cõi Ta bà chỉ bằng một đơn vị thời gian ở cõi Tây phương Cực Lạc. Mỗi một thời pháp của đức Phật A-di-đà ở Tây phương Cực Lạc kéo dài đến mấy mươi kiếp của cõi chúng ta, và chúng sanh ở cõi đó có thể ngồi cả ngày lẫn đêm để nghe những pháp âm vi diệu với lòng hân hoan tuyệt đối mà không hề nhàm chán. .

Thời gian tương đối về phương diện vật lý có thể hiểu một cách đơn giản như thời gian của thế giới loài người và thế giới của các loài động vật nhỏ. Chẳng hạn thời gian vật lý của con muỗi có thể là ba ngày và được xem như là một kiếp sống của nó. Đối với con thiêu thân thì chỉ có thể là một ngày một đêm, hoặc con vi trùng thì kiếp sống của nó chỉ vài giờ mà thôi. Khác biệt về chiều dài ngắn của thời gian giữa các hành tinh và chủng loại sống là những điều ta có thể cảm nhận và thấy được. Trong kiếp người cũng thế, có người thọ mạng được 160 tuổi như ngài Bạt-câu-la, có người chỉ sống được vài giây trong bụng mẹ đã bị chết do phá thai, có người vừa mới chào đời được vài phút đã tắt thở và có người sống được mười hay hai mươi năm của cuộc đời. Tính thời gian yểu và thọ hoàn toàn khác biệt trong từng cảnh giới và góc độ của mỗi con người, huống chi là sự so sánh giữa con người ở hành tinh này với các hành tinh khác.

Trong kinh A-di-đà, đức Phật nêu ra ba câu hỏi và tự trả lời theo cách thức “Vô vấn tự thuyết”. Có trường hợp chẳng ai hỏi, Thế Tôn vẫn triệu tập đệ tử lại để Ngài chia sẻ chiều sâu tâm linh. Điều này cũng giống như trong gia đình, cha mẹ có việc vui thường triệu tập con cái hay bà con thân thuộc lại, sửa soạn một buổi cơm chiều để mọi người dốc hết tâm tình cùng chia sẻ chuyện vui đó. Phương pháp “vô vấn tự thuyết” vượt lên trên tính cách thông thường và thân mật của một gia đình.

Ở đây, đức Phật đã giới thiệu một nội dung quá đơn giản mà có thể rất nhiều người không tin, vì người ta thường quan niệm rằng những gì quá mầu nhiệm thì phải xuất hiện ở các hành tinh khác, còn ở cõi Ta bà này không gì được xem là cao siêu mầu nhiệm. Đức Phật Thích Ca mô tả thế giới Cực Lạc ở phương

Tây xa xôi, cách hành tinh của ta đến mười tỉ năm ánh sáng. Đây là khoảng cách vật lý cực lớn mà nếu vận dụng các phương tiện hiện đại, các phi thuyền có khả năng bay thì phải mất nhiều thời gian mới có thể đến được nơi thế giới Cực Lạc. Kinh A-di- đà gửi đến chúng ta thông điệp Tịnh độ nhân gian dựa trên mô hình Cực Lạc của Phật A-di-đà.

Đây là mô hình tham khảo lý tưởng từ cảnh giới Tây phương Cực Lạc để thiết lập các giá trị Tịnh độ trong cõi Ta bà này. Đang sống ở hiện tại mà chỉ hướng về Tây phương thì đạo Phật sẽ bị gán là yếm thế và đào tẩu. Thực tế đạo Phật không dạy ta đào tẩu. Đạo Phật dạy ta có thể biến ước mơ thành hiện thực, và hiện thực đó nằm trong lòng bàn tay của chúng ta.

Câu hỏi thứ nhất trong kinh thuộc dạng vô vấn tự thuyết: “Này Xá-lợi-phất, vì sao cõi ấy được gọi là Cực Lạc?

Hỏi xong, đức Phật không cần đệ tử mình trả lời, bậc đại trí như ngài Xá-lợi-phất cũng im, và Ngài tự trả lời như sau:“Dân chúng cõi ấy không còn đau khổ, ngay cả từ “khổ” cũng không còn có mặt, huống chi là có thật. Dân chúng luôn sống trong an vui, thân tâm thơi thới cho nên cõi  ấy  gọi là Cực Lạc”.

Đoạn văn đó có hai vế, chúng tôi đã trích vế thứ hai ghép vào vế thứ nhất. Vế thứ hai là một đoạn kinh ở phần giữa bản kinh A-di-đà mô tả bản chất các loại chim ở Tây phương không phải do nghiệp báo sinh ra, mà do đức Phật hóa sinh ra để hỗ trợ cho phương pháp hoán chuyển pháp âm, giúp cho các hành giả Tây phương nhứt tâm niệm Phật, niệm Pháp, và niệm Tăng.

Đức Phật nói: “…Các loại chim này không phải do nghiệp lực mà do hóa sanh, vì trên cõi này không có ba đường ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh”.

Chúng tôi lấy đoạn văn đó ghép lên trên để nội dung mô tả về bản chất Tịnh độ được dễ hiểu hơn. Tu được nội dung nêu trên thì hành giả không cần tu thêm gì khác. Tu để được an vui và hạnh phúc, tu để vượt lên trên khổ đau và tu để giải phóng tất cả những khái niệm khổ đau trong não trạng thì rõ ràng không còn gì sung sướng hơn.

Đạo Phật chỉ dạy con người con đường thoát khổ. Dù là hàng trăm hay hàng ngàn quyển kinh, đức Phật cũng chỉ nói lên hai điều theo ngôn ngữ của kinh Trung Bộ: “Xưa cũng như nay, từ lúc ta xuất gia đến lúc nhập Niết Bàn, trong mấy mươi năm hoằng pháp và giáo dục, Thế Tôn chỉ nói lên hai vấn đề chính. Thứ nhất là tuyên bố về sự thật khổ đau. Thứ hai là tuyên bố con đường chấm dứt những khổ đau đó.”

Nếu chỉ “vạch mặt khổ đau” thì đạo Phật trở nên yếm thế, làm cho con người chán nản. Bên cạnh việc “vạch mặt khổ đau”, đức Phật đã cung cấp cho ta tấm bản đồ để “diệt trừ khổ đau”. Chính vì thế, đạo Phật là đạo tích cực.

Thế Tôn dạy ta nên mô phỏng mô hình Tịnh độ của đức Phật A-di-đà, áp dụng và nhân rộng nó trong thành phố, nông thôn, hay nơi ta đang sinh sống. Nếu Tây phương có an lạc và hạnh phúc thì ở cõi Ta bà này ta cũng có thể được. Vấn đề đặt ra là ta có được kiến trúc sư như đức Phật A-di-đà hay không? Ta có phương pháp để đạt được  điều đó hay không? Nếu có phương pháp, có trí tuệ và có kiến trúc sư giỏi thì vấn đề còn lại chỉ là thời gian mà thôi.

Tâm lý sợ khổ thường diễn ra trong mỗi người. Ai cũng sợ khổ, và giải quyết khổ đau đòi hỏi ta phải rất sáng suốt. Hành động đào tẩu không phải là giải pháp, nó chỉ là thuốc giảm đau tạm thời, và rồi khổ đau vẫn nối tiếp khổ đau.

Trong kinh Dược Sư, đức Phật cũng mô phỏng, quy hoạch và giới thiệu về đời sống lý tưởng ở cõi Đông phương của đức Phật Dược Sư. Trong các bản kinh Mật tông, Ngài cũng giới thiệu về cảnh giới lý tưởng của Đại Nhựt Thế Tôn.

Ba mô hình Tịnh độ này được đức Phật giới thiệu rộng rãi để chúng ta tùy nghi lựa chọn. Khi dùng thuốc chữa bệnh, mỗi người có ý thích khác nhau, người thích dùng thuốc Tây, thuốc Bắc, hoặc thuốc Nam: các pháp môn như dược chất tâm linh cũng thế, càng đa dạng càng đáp ứng được nhu cầu của chúng sinh..

CON ĐƯỜNG SANH VỀ TỊNH ĐỘ

Trước tiên, hành giả được sanh về cõi Cực Lạc không phải sanh bằng con đường tình dục, mà hành giả được tái sanh bằng hóa sanh.

Đạo Phật giới thiệu bốn loại sanh căn bản. Thứ nhất, loại hình thai sanh chiếm đa số và con người được xem là cao quý nhất trong các loài thai sanh.

Thứ hai, loại hình thấp sanh là sanh trong môi trường ẩm thấp như một số loài côn trùng.

Thứ ba, loại hình noãn sinh là sinh ra từ trứng như chim, gà v.v… Thông thường các loài sanh ra từ trứng thì nhận thức bị giới hạn, không như từ thai sanh.

Thứ tư, loại hình hóa sanh, tức sinh vật này biến hóa ra sinh vật khác như tằm hóa bướm, lăng quăng hóa muỗi, đời sống của các loại hóa sanh rất ngắn ngủi. Hoá sanh của các cư dân Tịnh độ được mô tả bằng biểu tượng “hoa sen năm sắc” tượng trưng cho các cấp độ tâm thức khác nhau và đã được thanh tịnh.

Con người được sanh ra dựa trên nguyên tắc sanh, lão, bệnh, tử nhưng đức Phật cho rằng các cư dân Tịnh độ không phải lo lắng về diện mạo sớm tàn phai, sự vô vị trong đời sống, hay đối chọi với nỗi cô đơn trong tuổi già và tất cả những lo lắng khác. Các loại bệnh tật và thiên tai như bão lụt, động đất, sóng thần, bệnh nan y, dịch cúm gia cầm v.v… đều không có mặt ở cõi Tịnh độ. Mô hình Tịnh độ rất lý tưởng cho con người về phương diện sức khỏe, tuổi thọ và sinh thái.

Nhiều người khi đọc đến đây sẽ đặt câu hỏi rằng, đây có phải là mô hình của một thế giới lý tưởng hay chỉ là một thế giới ảo? Trả lời và giải quyết vấn đề này không đơn giản tí nào. Người chưa từng đi du lịch hay tham quan cõi đó thì làm sao có thể hiểu được. Bằng phương pháp loại suy thông thường dựa trên giá trị kinh tế của các quốc gia ở cõi Ta bà cũng thấy rõ sự chênh lệch khá cao giữa những nước đã phát triển và những nước thuộc thế giới thứ ba. Kinh tế của người dân Việt Nam rất thấp so với người dân Hoa Kỳ, và lại càng thấp hơn so với những nước như Thụy Điển, Thụy Sĩ… Giá trị đồng tiền, sức lao động có sự cách biệt rất xa. Giá trị kinh tế bị biến thiên tùy theo phương thức kinh tế và cấu trúc xã hội. Nếu so sánh cư dân ở thành phố, cư dân ở thủ đô và cư dân ở những vùng nông thôn cũng thấy rõ sự khác biệt khá xa, huống hồ là giữa cõi Ta bà và cõi Tịnh độ.

Hãy tin tưởng có một thế giới vật lý ở Tây phương với mô hình lý tưởng về đời sống vật chất được mô tả trong kinh A-di- đà này. Dĩ nhiên, thế giới ấy có thể không là tuyệt đối đến một trăm phần trăm nhưng vẫn có thực. Mô tả thế giới ấy không phải để kích thích ta thèm khát, mà vấn đề quan trọng ở đây là nhìn thấy được một thế giới khác và tin tưởng rằng nếu ta chịu khó đầu tư và nỗ lực có phương pháp thì chắc chắn ta xây dựng được mô hình Tây phương Cực Lạc thu nhỏ ở cõi Ta bà này.

Singapore tuy chỉ là một đảo quốc, nhưng nền kinh tế lại cao hơn Việt Nam rất nhiều. Đảo quốc này sạch đẹp với môi trường sinh thái lý tưởng và có thể nói đây là một trong những quốc gia sạch nhất trên thế giới. Là một nước nhỏ nhưng lại có một mô hình sinh thái lý tưởng đến thế, vậy thì dựa vào cách mô tả ở thế giới Tây phương Cực Lạc trong kinh A-di-đà, ta nên tin chắc rằng đây là một thế giới có thật. Thế giới của đức Phật A-di-đà là một mô hình lý tưởng về kiến trúc sinh thái, quy hoạch xã hội, các quặng vàng mỏ ngọc và tất cả các tiêu chí ấn tượng khác.

THIẾT LẬP TỊNH ĐỘ Ở TA BÀ

Lòng từ bi có lúc phát xuất từ chủ nghĩa phương tiện. Đức Phật mô tả về thế giới Tây phương để chúng ta có niềm tin, từ đó giúp ta so sánh, nếu cõi Tây phương có được Cực Lạc thì cõi Ta bà này cũng có thể có được. Nếu quốc gia khác có cuộc sống tốt đẹp thì tại sao quốc gia mình lại không có được. Nếu  hành tinh khác có những giá trị tốt đẹp thì tại sao hành tinh chúng ta không có được.

Về phương diện tâm lý học, sự so sánh hơn, bằng và kém có thể tạo ra bản ngã, bởi nó lấy trục xoay của “cái tôi” làm chuẩn, thấp hơn người khác mà cứ nghĩ là hơn, thua người khác mà cứ nghĩ là bằng, và kém hơn người khác mà cứ nghĩ là ngang nhau. Tâm lý bằng và hơn làm cho con người luôn ganh tị và tranh chấp lẫn nhau. Tuy nhiên, có những loại hình so sánh về giá trị tâm linh và đạo đức, bằng cách “nhón chân và với tay” mới có thể đạt được sự tiến bộ.

Một người muốn có chiều cao thì ngay từ lúc nhỏ hãy thực tập mỗi ngày áp sát vào tường ít nhất là hai phút, chân nhón lên, tay vươn lên, tư tưởng nghĩ rằng các đốt xương đang giãn ra và chiều cao được tăng lên. Đây là phương pháp nâng chiều cao phối hợp với quán chiếu của đạo Phật. Cách “nhón và vói” như thế sẽ giúp ta cao hơn. Nếu ta muốn đạt được mười phần thì phải thực tập động tác “nhón và vói” lên đến mười một hoặc mười hai. Còn nếu muốn đạt mười mà ta chỉ thực tập có bảy hoặc tám thì kết quả thu được chỉ là năm hoặc sáu. Trong thi đua cũng thế, muốn trở thành quán quân của một lãnh vực thể dục thể thao, ta phải lấy tiêu chí của những người đoạt giải vô địch. Ta phải có ý chí muốn vượt qua chỉ tiêu của người đã phá kỷ lục đó. Có như thế ta mới có thể đạt bằng hoặc hơn. Nếu chỉ lấy tiêu chí của người xếp hạng thứ hai mươi hoặc ba mươi thì cuối cùng ta chỉ đạt ở vị trí bốn mươi hoặc năm mươi mà thôi.

Sử dụng phép so sánh hơn không phải để ta tự ti, chán nản, thất vọng, đua đòi hay tạo sự sang trọng để nâng cao giá trị. Hãy nhìn vào bản chất thực tại; những gì đang thiếu, ta phải thừa nhận để khắc phục. Cõi Ta bà này đầy những khổ đau và Tây phương Cực Lạc hạnh phúc gấp trăm nghìn lần. So sánh này giúp ta tự phấn đấu vươn lên chứ không phải để mặc cảm và tự ti. Đôi khi tâm lý so sánh hơn hoặc kém tạo ra sự phấn đấu và tiến bộ vượt trội. Tâm lý hãnh diện tự hào là sự trở ngại khi phải đối diện với sự thật; do đó, ta sẽ không có cơ hội để khắc phục những yếu kém, chưa hoàn thiện và chưa phát triển.

So sánh mô hình Tây phương Tịnh độ trong kinh A-di-đà và thế giới Ta bà giúp ta có cái nhìn về bản chất của thực tại theo cách “nhón chân và vói tay” thì mới đạt đến sự tiến bộ, và học hỏi sự tiến triển, thoát khỏi lạc hậu. Thái độ hãnh diện và tự hào không thể nào giúp ta đạt đến sự tiến bộ.

Bản chất của thế giới Tây phương là Cực Lạc về các phương diện: lạc thọ tâm lý, lạc thọ nhận thức, lạc thọ của thân và lạc thọ do môi trường sinh thái gây nên. So sánh các giá trị của thế giới Cực Lạc là để giúp ta mô phỏng và quy hoạch lại cõi Ta bà này. Các giá trị của chiều sâu và sự ấn tượng của bản kinh này là quy hoạch Ta bà theo mô hình Tịnh độ.

Thích Nhật Từ

http://www.daophatngaynay.com

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.