Đại Thừa Và Sự Liên Hệ Với Tiểu Thừa – Chương 4.1

Rồi các vị Bồ-tát, với chí nguyện cao thượng và với tâm niệm Ðại bi lên hàng đầu, cố gắng tinh tấn làm thêm các thiện sự. Vì các vị này có nhiều Sraddhà (tín), prasàda (tịnh), adhimukti (thắng giải), avakalpanà (thực giải), krpàkarunà (từ bi), mahàmaitri (Ðại từ), và với một tâm trí kiên trì với hrì (tàm), apatràpya (quý), qsànti (nhẫn), sàvraty (trọng hậu), thán phục giáo lý và nhờ thiện trí thức ủng hộ, các vị này được an trú trong Ðịa thứ nhất. Rồi các vị này có những đại nguyện như sau:

1) Kính lễ chư Phật dưới mọi hình thức và hết sức trang trọng;

2) Bảo trì và gìn giữ giáo lý đức Như Lai;

3) Chứng kiến Phật xuất hiện trong mọi thế giới và theo hầu chư vị Bồ-tát trong đời sống sau cùng của những vị này, từ khi xuống cung trời Ðâu suất cho đến khi nhập Niết bàn.

4) Thực hành tất cả Bhùmi (Ðịa) với các hạnh Ba-la-mật;

5) Giúp chúng sanh được thuần thục và chứng toàn giác;

6) Làm cho thanh tịnh mọi Phật sát bằng cách viếng thăm các chỗ ấy;

7) Hiểu hết sự sai biệt vô lượng giữa sự vật trong mọi thế giới;

8) Khuyến khích các vị Bồ-tát phát triển mọi đại nguyện và góp nhặt công đức từ đại nguyện ấy, chứng một căn bản duy nh?t và đồng nhất cho tất cả Bồ-tát, hầu hạ tất cả đức Phật, chứng kiến Phật xuất thế khi nào cần thiết, trải qua mọi hình thức của sự sống với tự thân của mình, thâm hiểu và truyền bá giáo lý Ðại thừa.

9) Làm phận sự của một vị Bồ-tát, làm các hạnh lành về thân, khẩu và ý, chứng ngộ Phật pháp một lần và tất cả, đoạn trừ các đau khổ với lòng tin, được một thân như Ðại y vương (Mahà bhaisa-jyaràjà) hay giống như viên ngọc như ý và nói được những lời nói không bao giờ vô ích; và

10) Chứng được chánh đẳng giác trong mọi thế giới, sanh ra như một người thường nhưng không bước xa chánh đạo một sợi tóc, xuất gia bỏ thế tục, làm các thần thông, chứng Bồ đề dưới cây Bồ đề, chuyển Pháp luân và cuối cùng chứng Ðại bát Niết bàn.

Trong khi còn ở trong HOAN HỶ ÐỊA, các vị Bồ-tát phát vô lượng đại nguyện, trong đó có 10 đại nguyện chính. Các vị này thương xót vô lượng chúng sanh bị tà kiến dắt dẫn sai lạc, bị vô minh dục vọng v.v… làm mờ ám, tiếp tục tái sanh trong ba giới, và theo luật nhân quả, tăng trưởng sự đau khổ cho chính mình. Các vị Bồ-tát cố gắng an trú trong Niết bàn, hạnh phúc tối thượng.

Khi ở trong địa thứ nhất, các vị này tăng tấn lòng từ bi và thực hành hạnh Mahàtyàga (Ðại xả), từ bỏ của cải, con, vợ v.v… tìm sự vật thế gian và xuất thế gian và như vậy trở thành tinh thông các bộ Sàstra (luận) và do vậy có thể phân biệt cái gì thiện và bất thiện cho chúng sanh. Các vị này trở thành Lokajnà (thế gian trí giả). Nhờ luôn luôn cúng dường và tôn trọng sàsana (giáo pháp), các vị này thành tựu được 10 thiện tánh cần thiết để thanh tịnh 10 Ðịa: Sraddhà (Tín), Karunà (Bi), Maitri (Từ), Tyàga (Xả), Khedasahisnutà (Nhẫn chịu khổ cực), Sàstrajnatà (Tinh thông luận bộ), Lokajnatà (Thế gian trí), khiêm nhường, tàm quý, kiên trì, và khả năng đảnh lễ Như Lai. Các vị này thấy rất nhiều đức Phật, cúng dường với những lễ vật cần thiết, đảnh lễ chư vị tăng già và hồi hướng các công đức để chứng vô thượng giác, có khả năng nhiếp hóa chúng sanh nhờ bố thí và ái ngữ (priyavadya) và adhimukti (đại nguyện). Ngoài ra còn kể hai nhiếp pháp khác (samgrahavastu) cũng được thành tựu nhưng chưa chứng Nhất thế trí. Trong 10 Ba-la-mật, bố thí Ba-la-mật là đệ nhất. Một vị Bồ-tát chứng Ðịa thứ nhất có khả năng làm vua xứ Diêm phù đề (Sambudvìpa), trở thành vị lãnh đạo lấy chánh pháp trị nước, luôn luôn hướng về Tam bảo, Bồ-tát hạnh và vô thượng trí. Muốn trở thành vị lãnh đạo chúng sanh, vị Bồ-tát xuất gia thọ giới, và trong một sát-na nhập 100 thiền định, diện kiến 100 đức Phật và thực hành những hành vi kỳ diệu khác.

Tương đương giữa Bhùmi (Ðịa) với Magga (Ðạo) và Phala (Quả)

Hệ thống Tiểu thừa không có gì tương đương với địa thứ nhất của Ðại thừa, vì không dính với Bồ đề tâm, Nguyện, Từ, Bi và 10 đức tánh cần cho một vị Bồ-tát để mạnh tiến trên 10 Ðịa.

Chính từ Ðịa thứ hai, hệ thống Tiểu thừa mới có những giai đoạn tương đương với hệ thống Ðại thừa. Tập Bodhisattvabhùmi và Madhyamkàvatàra chú ý đến điểm này trong khi đề cập đến các Bhùmi.

Trong hệ thống Tiểu thừa, về các vị thứ tu hành, thường nói rằng một vị tu hành sẽ trở thành một Dự lưu và Nhất lai nhờ theo giới Adhisìla (thắng giới), một vị Bất lai nhờ theo định Adhicitta (thắng định) và một vị Bồ-tát nhờ theo huệ Adhipannà (thắng tuệ). Nếu nay chúng ta so sánh với các Ðại thừa Ðịa như đã được gọi trong Bodhisattvabhùmi, sự liên hệ giữa các Ðịa tiểu thừa với các Ðịa đại thừa trở thành rõ ràng. Như vậy chúng ta cũng có thể đặt tên cho các vị thứ tu hành Tiểu thừa như (1) Puthujjana trừ Gotrabhù (Phàm phu trừ Chuyển tánh), (2) Adhisìla (Thắng giới), (3) Adhicitta (Thắng định), và (4) Adhipannà (Thắng tuệ). Nay nếu chúng ta đem so sánh với những vị thứ tu hành Ðại thừa như đã ghi trong tập Bodhisattvabhùmi, thời sự liên lạc giữa các Ðịa tiểu thừa và đại thừa trở thành rõ ràng. Các Ðịa ấy như sau:

1) Gotravihàra (Tánh trú)

2) Adhimukticaryà vihàra (Niệm hành trú)

3) Pramudità vihàra (Hoan hỷ trú)

4) Adhisìlavihàra (Thắng giới trú)

5) Adhicittavihàra (Thắng định trú)

6), (7) và (8) Adhiprajnàvihàra (Thắng tuệ trú)

9) Sàbhisamskàra-sàbhoga-nirnimitta-vihàra (Hữu hành hữu lực vô tướng trú)

10) Anàbhoga-nirnimitta-vihàra (Vô lực vô tướng trú)

11) Pratisamvid-vihàra (Vô ngại biện trú), và

12) Parama-vihàra (Vô thượng trú)

Trong 12 vihàras này, chúng ta đã nói đến 2 vihàras đầu, các Ðịa dự bị, thường không được ghi trong danh sách các Ðịa thông thường và tương đương với Tiểu thừa phàm phu Ðịa, hay Tiền dự lưu Ðịa. Do vậy, nếu để ngoài hai Ðịa này, chúng ta có danh sách 10 Ðịa. Rõ ràng 5 Ðịa (4-8 của tập Bodhisattvabhùmi và 2-6 của tập Dasabhùmikasàstra) tương đương với 4 vị thứ Tiểu thừa. Các tuệ và quả vị cao hơn mà các vị Bồ-tát tự xem chỉ mình có, và theo các nhà Ðại thừa là vượt ngoài khả năng của các nhà Tiểu thừa, chỉ được chứng ngộ trong bốn Ðịa sau cùng.

Vimàla hay Adhisìla (Vô cấu hay Thắng giới)

Một vị Bồ-tát đã thực hành Ðịa thứ nhất một cách chính xác và muốn chứng Ðịa thứ hai, cần phải tu tập thêm 10 Cittàsayas (Tâm hướng): Rju (chánh trực), Mrdu (nhu nhuyến, mềm), karmanya (kham năng), Dama (điều phục), sama (tịch tịnh), kalyàna (thuần thiện), asamsrsta (bất tập), anapeksa (vô cố luyến), udàra (quảng quyết) và mahàtmya (đại tâm).

Khi mười àsayas này được thành tựu, vị Bồ-tát chứng được Ðịa thứ hai, Vimalà (Vô cấu địa). Vị này tự nhiên không còn pranàtipàta (sát sanh), adattàdàna (thâu đạo), kàmamithyàcàra (tà dâm), anrtava=cana (vọng ngữ), pisunavacana (lưỡng thiệt), arusavacana (ác khẩu), sambhinnapralàpa (ỷ ngữ) và trở thành anbhidyà (không hà tiện), avyàpannacitta (không sân hận) và thành tựu được samyagdrsti (chánh tri kiến). Vị Bồ-tát liền nghĩ rằng mọi chúng sanh khổ đau chỉ vì không tránh 10 nghiệp bất thiện (akusalakarmapathas). Do đó, vị Bồ-tát phải khuyên chúng sanh theo chánh hạnh, và với mục đích ấy, vị Bồ-tát trước hết phải tự mình thực hành chánh hạnh.

Vị Bồ-tát suy nghĩ rằng loài người được phân loại theo thiện nghiệp của mình và các hành động khác, do vậy trở thành loài người, chư thiên, Thanh văn, Ðộc giác, Bồ-tát và đức Phật. Vị này cũng suy nghĩ rằng do làm các hành bất thiện mà loài người sanh trong địa ngục, súc sanh, dạ xoa, hay loài người với đời sống chết yểu và nhiều bệnh tật. Do vậy, vị Bồ-tát quyết định làm 10 điều thiện và khuyến khích các người khác làm. Vị này khởi lòng từ bi thương xót mọi loài chúng sanh, tự xem mình có bổn phận làm một bậc thầy, một vị hướng dẫn, chuyển tà kiến của chúng sanh thành chánh kiến. Vị Bồ-tát nhận thấy chúng sanh vì phẫn nộ, hà tiện, tham ái, hận thù, si mê, ám chướng, không tinh tấn v.v… nên phải trôi lăn trong làn sóng dục ái, hữu ái, vô minh, bị trói buộc trong tham sân, ưa ghét và bị chi phối bởi ảo tưởng có Ta và cái của Ta. Do lòng từ bi, vị Bồ-tát phát tâm cứu độ chúng sanh ấy và hướng chúng đến cõi thanh bình tịnh lạc.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.