Đại Thừa Và Sự Liên Hệ Với Tiểu Thừa – Chương 4.1

Khi ở trong Ðịa này, vị Bồ-tát có thể thấy nhiều đức Phật, kính lễ Ngài và hồi hướng công đức ấy đến chứng quả Bồ đề. Vị Bồ-tát đón nhận các thiện nghiệp từ những đức Phật ấy, trải nhiều kiếp cố gắng tu hành, diệt trừ màtsarya (xan tham) và thực hành hạnh bố thí. Trong 4 nhiếp pháp, vị Bồ-tát tăng cường priyavadya (ái ngữ), và trong 10 Ba-la-mật, thực hành nhiều nhất giới Ba-la-mật, chứ không phải các Ba-la-mật khác. Nếu một vị Bồ-tát, sau khi chứng Ðịa thứ hai, muốn được giàu sang phú quý, có thể trở thành một vị Chuyển luân thánh vương với bảy món châu báu v.v…

Chúng ta thấy rõ, với bản tường thuật trên, Ðịa thứ hai rất giống với Adhisìla (Thắng giới) của Tiểu thừa, lẽ dĩ nhiên phải bỏ ngoài các adhyàsayas của các vị Bồ-tát. Trong tập Visuddhimagga, có tuyên bố rằng sự thực hành các giới hạnh đưa đến thanh tịnh giới phẩm và làm căn bản chứng quả Dự lưu và Nhất lai. Trong chương đầu tập Visuddhimagga, Ngài Buddhaghosa nói nhiều về các hạnh tu hành của các vị tại gia, cư sĩ, nam tu sĩ, nữ tu sĩ, và thêm vào chương thứ hai về 13 hạnh Ðầu đà (Dhutanga) mà Ngài xem là rất cần thiết để thành tựu các giới hạnh một cách viên mãn. Các tập Nikàyas nói đến Sìla (giới) tức nói đến 10 giới và 250 căn bản giới. Do thành tựu viên mãn các Sìlas và một ít Samàdhi (Ðịnh) và Pannà (Tuệ), người tu hành trở thành một bậc Dự lưu và Nhất lai. Chúng ta biết một vị Dự lưu giải thoát khỏi ba Samyojanas (kiết sử) và hai Anusaya (tùy miên), tà kiến và nghi. Nhờ làm cho nhẹ bớt (tanutta) ba kiết sử ràga (tham), dosa (sân) và moha (si), nhờ đoạn sạch các anusayas (tùy miên), kàmaràga (dục ái) và patigha (sân) và nhờ tu hành thêm một ít Ðịnh và Tuệ, người tu hành trở thành một vị Nhất lai. Trong tập Patisambhidàmagga (tr.96), có nói rằng một người tu hành trong Dự lưu quả, Nhất lai hướng v.v… chứng được Annindriya (Tuệ căn) và các pháp đã sẵn có được biểu lộ, và những tư tưởng mới khởi lên trong tâm được trong sạch, siêu thế và hướng đến Niết bàn. Một vị Dự lưu cũng trừ diệt hoàn toàn ditthàsava (kiến lậu) và cả ba lậu khác đưa đến địa ngục, còn một vị Nhất lai diệt trừ dục lậu thô tháo và một phần hữu lậu và vô minh lậu. Ngoài những quả vị phải đạt được trong Dự lưu hướng, vị tu hành phải nghĩ đến sự vô thường và vô ngã của năm thủ uẩn.

Có hai giai đoạn giữa Dự lưu và Nhất lai được gọi là kolamkola (kulankula=gia gia) và ekabìjì (ekavìcika=Ðoạn nhất gian). Ai diệt trừ ba kiết sử (samyojàna), thành tựu các giới hạnh (sìla) và thực hành một ít Ðịnh và Tuệ thường được gọi là một vị Dự lưu. Vị ấy cũng được gọi là sattakhattuparama (tối đa bảy lần) vì phải sanh bảy lần làm người hay chư Thiên trước khi chứng Niết bàn. Vị này không bao giờ phải rơi vào địa ngục và thế nào cũng chứng được Niết bàn sau khi đoạn trừ thêm hai avarabhàgiya (orambhàgiya=hạ phần kiết sử), tức là kàmacchanda (Dục ái) và Vyàpàda (Sân) và năm urdhvabhàgiya (uddhambhàgiya: cao hơn) Thượng phần kiết sử, tức là rùparàga (sắc tham), arùparàga (vố sắc tham), auddhatya (trạo cử), màna (mạn) và moha (si).

Một vị Dự lưu trở thành một kulankula sau khi đoạn trừ phiền não thứ ba và thứ tư ở Dục giới và chứng được các căn thanh tịnh hơn so sánh với các phiền não. Vị này sẽ sanh lại hai hay ba lần giữa các chư Thiên, khi ấy được gọi là Devakulankula, hay giữa các loài người, khi ấy được gọi là manusyakulankula (Kosa, II, 34). Các tập Nikàyas không có phân biệt rõ ràng Dự lưu và Kolamkola. Tập Visuddhimagga có sự phân biệt giữa hai quả vị này, nói rằng các vị Kolamkolas có vipassanà (quán) và indriya (căn) thuộc loại trung phẩm, còn các vị Dự lưu thuộc loại hạ phẩm.

Giai đoạn kế tiếp Ekabìjì (Ekavìcika) được các tập Pàli đặt sau Kolamkola và trước Nhất lai (VI, 35-36). Theo các tập Pàli, các vị Ekabìjì hơn các vị trước vì có phát triển Ðịnh và Tuệ nhiều hơn, nhưng không thể thành tựu một cách hoàn toàn. Tập Visuddhimagga thêm rằng các vị này có lợi căn (tikkhìndriya), nhờ vậy những vị này chỉ phải sanh có một lần giữa loài người (mànusakam bhamam) trước khi chứng Niết bàn. Một vị Nhất lai được diễn tả tương tự, chỉ có không nói rõ là phải tái sanh giữa loài người hay chư Thiên, các tập chỉ nói imam lokam àgantvà, nghĩa là phải tái sanh ở Dục giới và Dục giới gồm cả chư Thiên và loài người. Dù thế nào đi nữa, các vị Nhất lai giảm trừ đến mức tối đa các phiền não ràga, dosa và moha.

Tập Kosa nói rằng một vị Nhất lai đoạn trừ các phiền não (klesa) đến phiền não thứ sáu. Sau khi đã sanh giữa các chư Thiên, vị này sẽ được tái sanh giữa loài người, giảm trừ ràga, dvesa và moha đến mức tối đa và chỉ còn ba phiền não thấp nhất cuối cùng là mrdvadhimàtra (cực độn), mrdumadhya (trung độn) và mrdumrdu (độn độn). Các vị Ekavìcika được phân biệt khác các loại khác vì đã diệt trừ phiền não thứ bảy hay thứ tám và chứng được các indriyas (căn) đối lập các phiền não ấy. (Kosa, VI, 36 nói rằng vìci nghĩa là gián cách, các vị này gián cách Niết bàn chỉ còn một lần tái sanh mà thôi. Theo Pàli, bìja có nghĩa là hột giống, khác hẳn với nghĩa của Câu xá).

Sự phân biệt Dự lưu thành ba loại cũng được tập Lankàvatàna (Lăng già) nói đến. Theo tập này, các vị Dự lưu có ba hạng: hìna (hạ), madhya (trung) và visìsta (thượng). Các vị ở hạ phần phải tái sanh bảy lần, các vị trung phần ba hay năm lần và các vị thượng phần (ekavìcika) chỉ có một lần thôi. Các kiết sử thân kiến, nghi và giới cấm thủ thuộc về độn, trung hay lợi tùy theo các hạng Dự lưu. Một vị Dự lưu, sau khi trừ diệt ba kiết sử, không còn có tham, sân, si. Ở đây tập Lankà (tr.119) khác với các tập Tiểu thừa, các tập này xem Nhất lai làm giảm thiểu tham, sân, si đến mức tối đa. Khi nói đến các vị Nhất lai, tập Lankàvatàra chỉ nói đến các vị này cần phải tái sanh một lần nữa để diệt trừ khổ đau. Giai đoạn tiếp theo Nhất lai là Anàgàmi (Bất lai), tương đương với Ðịa thứ ba của các nhà Ðại thừa.

http://www.tuvien.com/triet_hoc

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.