Hành Trình Tới Các Cõi Bên Kia Cái Chết – Phần II

Tôi cũng nhìn thấy các cư sĩ tantrika[47], đã hành xử vô trách nhiệm, những phù thủy già và những người phàm tục giả bộ làm các đạo sư, vô số những người đó đang ói ra máu và trải qua sự đau đớn không thể chịu được của thân xác. Tôi thấy nhiều sinh vật ăn thịt đang ngấu nghiến họ và nhiều cư dân ở địa ngục ném ra những lời buộc tội về những ác hạnh của họ.

Ô những lạt ma tăm tiếng của thời đại, gồm cả tu sĩ lẫn cư sĩ, một đứa con gái hèn mọn như tôi hầu như không dám nhắn gởi tới quý ngài, vì thế tôi phải van nài quý ngài. Trong các cõi địa ngục là những cuộc phán xét mà quý ngài có thể tự thấy chính mình. Chúng ta sẽ xem xét những điều này? Quý vị, những cư sĩ tantrika, ngày nay với mái tóc dài và những áo choàng trắng, vợ (chồng) và con cái quý vị đã sum vầy đông đảo. Được các vị trời và quỷ ma trợ giúp và được sở hữu một ít năng lực huyền bí nhỏ bé, quý vị lừa phỉnh người khác bằng cách tuyên bố mình phải những thị kiến về các vị trời và quỷ ma. Nếu quý vị có khả năng nghĩ tưởng về điều đó, giờ đây hãy thực hiện nó. Cầu mong điều đó không làm tổn hại quý vị và cầu mong cuộc đời quý vị được trường thọ. Đó là thỉnh cầu của tôi.

Dưới đây là thông điệp của Yama Dharmaraja:

Những đạo sư, các tăng và ni tôn quý trong thế giới này

tin cậy nhiều guru theo một cách thế hời hợt mà không khảo sát họ.

Họ không giữ gìn những thệ nguyện samaya của mình, và

vì thế đặt một gánh nặng lên vai họ, nó kéo họ xuống đáy sâu địa ngục.

Đặc biệt, vị đạo sư mà từ Ngài ta nhận lãnh những quán đảnh,

là người chỉ cho ta con đường đi tới sự trưởng thành và tự do trong tâm linh,

và là người khai thị bổn tánh chân thật của ta

là tinh túy của một ngàn vị phật của thời đại may mắn này.

Đối với những kẻ làm đảo lộn hay đi nghịch lại lời dạy của đạo sư họ

hoặc kẻ tạo nên mối bất hòa trong những bằng hữu, anh em và chị em tâm linh

-là những người đã tham dự cùng một mạn đà la[48] và cùng một dòng giáo lý-

thì chẳng có sự tích tập công đức nào đem lại lợi lạc.

Không chỉ như thế, mặc dù những kẻ mắc phạm những ác hạnh chống trái như Phật

có thể tịnh hóa nghiệp của họ nhờ sự sám hối, nhưng những kẻ gãy bể samaya thì không có nơi nương tựa.

Mặc dù những kẻ đã giết hại nhiều ngàn người và ngựa

có những phương tiện để sám hối các hành động của họ, nhưng những kẻ gãy bể samaya đã từ bỏ các đối tượng quy y mà với các ngài họ có thể sám hối.

Đi nghịch lại lời dạy của vị thầy gốc của mình là một ác hạnh còn to lớn hơn việc mỗi ngày giết một người.

Dù cho một ngàn vị Phật của thời đại may mắn này xuất hiện,

nhưng bất kỳ dây cứu hộ nào các ngài có thể tung ra để kéo lên những kẻ chịu trách nhiệm về ác hạnh nặng nề này cũng đều bị đứt.

Không chỉ một mình kẻ mắc phạm bị đọa lạc;

mà những ai có liên hệ với họ qua ngôn ngữ hay tiếp xúc, giống như những đàn bê và cừu chạy tán loạn trên một sườn núi,

cũng sẽ bị lộn ngược đầu và rơi xuống Địa ngục Kim cương[49].

Vào lúc đó, mặt đất của thế giới con người sẽ rung động

và nhiều bậc linh thánh sẽ thị tịch.

Trong một ngàn kiếp sẽ không thoát khỏi trạng thái đó;

mà trong hàng tỉ đại kiếp không thể tính đếm được

họ sẽ phải chịu đựng lập tức mọi đau khổ

mà tuyệt đối không cách nào chịu đựng nổi sự đau đớn này.

Than ôi, hỡi các đạo sư và tulku, cư sĩ lẫn tu sĩ trong thế giới con người!

Hãy không ngừng dâng lên những lời cầu nguyện, trong mọi lúc hãy duy trì mối liên hệ không ngăn cách

với vị thầy gốc, ngài ngang bằng chư Phật trong ba thời[50].

Chớ để ba năng lực[51] của quý vị bị xao lãng.

Hãy phụng sự đạo sư của quý vị trong bất kỳ cách thức nào có thể.

Hãy cúng dường những vật sở hữu thâu đạt được như một sự cúng dường mạn đà la hoan hỉ.

Nếu quý vị có thể chấp nhận mệnh lệnh của đạo sư của mình

và hiến dâng thân thể lẫn sinh lực của mình để phụng sự đạo sư,

thì cho dù quý vị không thực hành đức hạnh nào khác, như thiền định về các bổn tôn hay trì tụng các thần chú,

quý vị sẽ không cần gặp ta khi từ bỏ thân xác mình.

Quý vị sẽ sẵn sàng đi tới bất kỳ cõi thuần tịnh nào quý vị muốn.

Bởi thông điệp này tiết lộ công khai những vấn đề ẩn dấu và bí mật,

quý vị không cần phải xấu hổ hay bối rối – hãy lớn tiếng công bố ra ngoài cho mọi người.

Nếu quý vị muốn nghe lời khuyên của Dharmaraja,

hãy ôm giữ những gì ta nói trong tim quý vị,

Samaya!

Tiếp tục hành trình trong các địa ngục, tôi đi tới một nơi có khoảng mười tám các vạc úp miệng xuống dưới. Tôi tự hỏi: “Những vật kỳ dị này sao lại úp ngược thế nhỉ?”

Ngay sau đó, Awa Đầu-Bò xoay cái vạc nhỏ nhất trong số đó (chúng lớn tới nỗi nếu đi ngựa thì phải mất tới mười tám ngày mới giáp vòng chu vi của nó) cho ngửa miệng lên, hướng về phía tôi. Bên trong là nhiều lớp máu. Tim tôi bừng bừng, thân tôi run rẩy vì xúc động.

Ông ta nói: “Sự kiện năm nay chúng lật úp xuống có nghĩa là nhiều đạo sư, đặc biệt là các ngài Tromge Khakyod, Dza Konchhog và những vị khác, đã khởi hành tới các cõi thuần tịnh, đem theo những người có liên hệ với các ngài. Đối với họ, sẽ không có chuyện rơi trở lại vào vòng luân hồi sinh tử”.

Trên một con đường ánh sáng cầu vồng – trắng, vàng, đỏ và xanh lá cây – vị đại hành khất T’hrulzhing, lạt ma Gyurmed Dorje ở Tahor tiến lại gần cùng với đoàn tùy tùng gồm nhiều đệ tử. Ngài đang hát tụng bài ca sau đây:

Om ah hung vara guru padma siddhi hung.

Tôi không thấy cõi địa ngục, mà chỉ thấy cõi thuần tịnh cao tột, Pháp giới nền tảng của mọi hiện tượng.

Tôi không thấy Yama Dharmaraja, mà chỉ thấy Pháp Thân Samantabhadra (Phổ Hiền).

Tôi không thấy đám thuộc hạ hung nộ, mà chỉ thấy các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ của các mạn đà la.

Tôi không thấy các đứa trẻ tươi đẹp và tối ám của nghiệp, chỉ thấy năng lực mạnh mẽ tự-sinh của trí tuệ siêu việt và những phương tiện thiện xảo[52].

Tôi không thấy các cư sĩ, tăng hay ni, mà chỉ thấy cõi thuần tịnh của phạm vi hoàn toàn rộng lớn của sự thuần tịnh vĩ đại.

Tôi không thấy những hậu quả sau cùng của thiện hạnh và ác hạnh, mà chỉ thấy năng lực mạnh mẽ của giác tánh nội tại tô điểm chân tánh của thực tại.

Tôi không thấy sự khác biệt giữa những gì có mối liên hệ và những gì không,

mà chỉ thấy tất cả hoàn toàn nối kết trong Pháp giới nền tảng của các hiện tượng.

Tôi không thấy các cõi chúng sinh cao và thấp, mà chỉ thấy sự thuần tịnh nguyên sơ của sự hiện hữu có điều kiện và của trạng thái an bình.

Gấp lên, nhanh lên, mọi người – hãy theo tôi!

Khi Ngài hát bài đó, từ trái tim Ngài một ánh sáng chiếu rọi như ánh trăng. Ngay lúc ấy nó tràn ngập mọi cõi địa ngục, những âm thanh của sự đau khổ và khóc than đột nhiên ngưng bặt. Những cư dân địa ngục đứng nhìn với đôi mắt mở to, đầy vẻ sợ hãi. Ngay cả Dharmaraja cũng biến mất trong phút chốc. Vị lạt ma đi qua, dẫn dắt mười hai ngàn chúng sinh tới cõi Potala, dù họ có liên hệ với Ngài hay không.

Tôi quỳ lạy, cúng dường và lập đi lập lại sự xác quyết của tôi trong niềm tin và sự hoan hỉ. Đức Tôn kính Tara cũng chắp tay và nói: “Vị lạt ma đó tên là Akara, cũng được gọi là Tahor Gyurmed Dorje”.

Cũng xuất hiện một lạt ma ở quận Nyagrong tên là Yeshe Droje, thân Ngài chiếu sáng một vẻ rực rỡ khó mà cưỡng được và có một đoàn tùy tùng gồm nhiều daka và dakini vây quanh Ngài. Từ đôi môi Ngài phát ra những lời sau:

Con khẩn cầu dưới chân bậc thánh đại thành tựu ở sườn núi Lhangdrag[53].

Con là Yeshe Droje của cái thấy không tạo tác,

Yeshe Droje của sự thiền định không lầm lẫn,

Yeshe Droje của mục đích không lay động.

Từ tuổi ấu thơ, con đã nối góc một bậc thánh thành tựu vĩ đại.

Con đã đem tới sự hoàn thiện của Ngài cuộc đời cùng sự thực hành của con.

Tất cả những ai có một mối liên hệ với tôi, tôi đã hướng họ tới con đường toàn trí.

Giờ đây những ai có niềm tin nơi Padma Duddul,

bậc thánh đại thành tựu ở quận Nyagrong,

và ở tôi, một lão già,

sẽ đi với tôi tới tiểu lục địa Chamara,

tới núi Huy Hoàng.

Om ah hung vajra guru padma siddhi hung.

Với những lời này, ánh sáng chiếu rọi và tràn ngập dưới mười tám cõi địa ngục[54]. Rồi vị lạt ma dẫn hai mươi ngàn người, các đạo sư, tăng sĩ và các cư sĩ, ngay cả những hành khất và người mù, tới núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trên tiểu lục địa Chamara.

Tôi cảm thấy một niềm tin và sự hoan hỉ khó tưởng tượng nổi. Vị thiên nữ tôn kính lạy ba lạy và nói: “Vị lạt ma này tên là Jnanavajra[55], cũng được gọi là hành khất Yeshe Dorje. Chúng sinh chỉ nghe nhắc tới danh hiệu Ngài cũng được hưởng vô lượng lợi lạc”.

Trong số những người đàn ông và đàn bà ở cộng đồng Satod là một người đàn ông tên là Wanggyal mang trên lưng một chuỗi hột bồ đề có kích thước bằng một trái núi[56]. Không thể nâng nó lên, ông ta kêu thét trong đau đớn khi các thuộc hạ đánh đập ông.

Tôi hỏi một thuộc hạ đầu cọp là hành động nào đã dẫn tới hậu quả này. Ông ta trả lời: “Người này đã đánh đập một khách hành hương du phương, một yogin chứng ngộ đang trên đường tới Tsiwa và dùng vũ lực ăn cắp chuỗi tràng và tất cả những tài sản khác của Ngài”.

Om mani padme hung hri.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.