12 Bài Thần Chú Thường Tụng

2. CHÚ ĐẠI BI (đọc 5, 7 hay 21 lần)

Nam mô đại bi hội thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni:

Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.

Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nammô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nammô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đá sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá (na ma bà tát đa *) na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế.  Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế lị dạ. Na ra cẩn trì. Địa lị sắt ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nammô hát ra đát na đá ra dạ da.Nammô a lị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, ta bà ha.

“Án, tất điện đô. Mạn đa ra. Bạt đa da, ta bà ha.”. (3 lần)

Nam mô Thập phương thường trú Tam bảo (3 lần)

Nam mô A-Di-Đà Phật (tùy hỷ tụng niệm)

Chú Đại Bi:

Theo Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni giải thích: “Hồi đời quá khứ vô lượng ức kiếp, có đức Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ ra đời vì ngài Quán Thế Âm mà nói ra chú Đại Bi này. Lúc đó Ngài mới trụ bực Sơ Địa, sau khi nghe chú này rồi thì siêu chứng lên bậc Bát Địa liền, Ngài thấy hiệu nghiệm như vậy liền phát đại nguyện rằng: “Nếu qua đời vị lai có thể đem thần chú này ra làm lợi ích cho chúng sanh thì cho thân Ngài sanh ra ngàn cái tai ngàn con mắt,” v.v… Ngài nguyện vừa xong thì quả nhiên tay mắt đều đầy đủ tất cả và lại được chư Phật Phóng quang soi đến thân Ngài, đồng thời soi khắp vô biên thế giới. Khi ấy Ngài lại phát nguyện nữa rằng: “Người nào nếu trì tụng chú này mỗi đêm 5 biến thì đặng tiêu hết những tội nặng sanh tử trong trăm ngàn vạn ức kiếp, đến lúc mạng chung thì có thập phương chư Phật hiện thân tiếp dẫn về cõi Tịnh Độ. Bằng như người nào trì tụng chú này mà sau còn đọa vào ba đường ác và chẳng đặng sanh về cõi Phật hay chẳng đặng những pháp Tam Muội, chẳng biện tài, sở cầu không toại chí, nếu có mấy sự ấy, thì chú này không được xưng là Đại Bi Tâm Đà La Ni”. Chỉ trừ những người tâm không thiện, chí không thành và lòng hay nghi thì không thấy hiệu nghiệm được liền mà thôi.

Theo Nhị Khoá Hiệp Giải của Hoà Thượng Thích Khánh Anh, trang 74 giải thích: “Thuở ấy, đức Quán Thế Âm rất kín nhiệm Phóng ra hào quang lớn chiếu cả mười phương các cõi nước đều rực rỡ thành màu vàng ròng; rồi chấp tay bạch Phật rằng: Tôi có thần chú…. Đại Bi tâm Đà La Ni, nay tôi muốn nói ra để cho các chúng sanh đều đặng an lạc, vì nó có hiệu lực: tiêu trừ bệnh hoạn, tuổi sống lâu dài, giàu có, thêm điều lành, dứt hết các tội, được toại tâm với sự mong cầu, nên được Phật hứa cho thuyết chú.”

Đây là những sự linh ứng và diệu dụng của Thần Chú Đại Bi.

 Lược Giải Chú Đại Bi

1.-  Dẫn nhập:

Chú Đại Bi được phát xuất từ  sự xác quyết do kim khẩu của Bồ tát Quán Thế Âm. Thường được gọi là Thần chú, Linh chú. Bởi vì ai tin và thành tâm hành trì thần chú nầy thì bản thân người ấy đã có đủ Đại bi tâm. Thần chú nầy do Bồ tát Quán Thế Âm nói ra và được chư Phật ấn chứng mà gần nhất là đức Thích Ca Như Lai Từ Phụ của chúng ta nghe và đức Thích Ca cũng ấn chứng.

Thần chú nầy có rất nhiều tên khác nhau như:

Quảng đại Viên mãn, Vô ngại Đại bi, Cứu khổ Đà la ni, Diên thọ Đà la ni, Mãn nguyện Đà la ni, Diệt ác thú Đà la ni, Phá ác nghiệp chướng Đà la ni,  Tối siêu thượng Đà la ni,..

Những danh hiệu trên đây, đức Phật đã trực tiếp hướng dẫn cho ngài A Nan và Đại chúng biết. Nguyên Thần chú nầy tên rất dài: “Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ tát Quảng đại Viên mãn Vô ngại Đại bi tâm Đà la ni thần chú”. Bài chú gồm có 84 câu.

Đức Phật đã từng nói với Bồ tát Quán Thế Âm:

–  “Hởi thiện nam tử, ngươi nên bền lòng trì tụng Thần chú nầy, sẽ có tác dụng lớn trong việc tế độ chúng sanh trong những ác nghiệp của các kiếp sau ….”

Căn cứ vào sự ghi chép trong kinh điển, lúc ấy Bồ tát Quán Thế Âm sau khi nghe đức Phật hướng dẫn, Ngài liền phát nguyện trì tụng liên tục từ cảnh giới Sơ địa đến Bát địa và thẳng lên Bất động địa. Cũng từ đó, ngài phát đại nguyện: Cầu cho kiếp sau của ngài phổ độ cho hết thảy chúng sanh đều được vui thích và mong cho ngài được ngàn cánh tay, ngàn con mắt.

Sau khi phát nguyện xong, phút chốc, toàn thân ngài đã đầy đủ cả ngàn tay, ngàn mắt; tất cả mười phương đều chấn động và mưa hoa cúng dường. Chư Phật cũng phóng hào quang rực rỡ, soi khắp đó đây. Từ đó, Thần chú nầy mới có nhiều danh hiệu như vậy.

Đức Phật bảo ngài An Nan rằng:

Kết quả có được của Bồ tát Quán Thế Âm là do sự phát đại thệ nguyện vì chúng sanh.

Những ai phát nguyện nhất tâm trì tụng thì sẽ được tiêu trừ tội chướng trong đời nầy và kiếp vị lai. Trong giây phút lâm chung, nếu mình tự niệm hoặc được thiện tín thành tâm hộ niệm thì sẽ được vãng sanh hoặc đến quốc độ mà mình muốn đến. Có đức Phật A Di Đà và chư vị Bồ tát thùy từ tiếp dẫn.

Những ai trong đời nầy, nhất tâm trì tụng Đại bi tâm chú thì sẽ được toại nguyện về 15 loại thiện sanh và trừ được 15 loại ác tử.

a. Mười lăm loại thiện sanh:

1.      Nơi được sanh ra thường gặp năm điều lành.

2.      Thường được sanh ở nước lành (thiện quốc).

3.      Thường gặp thời hay, vận tốt.

4.      Thường gặp được thầy sáng, bạn lành.

5.  Thân các căn đều trọn vẹn, đầy đủ (lục căn hoàn cụ)

6.      Đạo tâm luôn được thuần hậu, chơn chánh.

7.      Không phạm cấm giới.

8.      Tình anh em cốt nhục đều được thuận hòa, an lạc.

9.      Trọn đời cơm áo đầy đủ, nhàn nhã.

10. Luôn luôn được mọi người kính mến, thương giúp.

11. Tài sản, của cải không bao giờ bị cướp đoạt.

12. Cầu gì đều được toại ý. (Sở cầu như ý)

13. Luôn được thiện thần, hộ pháp bảo vệ.

14. Nơi được sinh ra thường được nghe Phật thuyết pháp.

15. Khi nghe được Chánh pháp là hiểu ngay được thâm ý mà trực ngộ lời Phật dạy.

b. Mười lăm loại về ác tử:

1.      Không bị chết khốn khổ về đói khát, loạn lạc.

2.      Không bị chết vì giam cầm, đánh đập.

3.      Không  bị chết vì thù oán.

4.      Không bị chết nơi trận địa.

5.      Không bị chết vì thú dữ cắn xé.

6.      Không bị chết vì rắn, rết cắn.

7.      Không bị chết cháy hay chết đuối.

8.      Không bị trúng độc khi ăn uống mà chết.

9.      Không bị các loại trùng độc sát hại.

10. Không bị cuồng loạn hay thất vọng mà chết.

11. Không bị cây cối rơi trúng hoặc sa xuống hầm hố mà chết.

12. Không bị người khác trấn ếm, trù ẻo mà chết.

13. Không bị tà thần, ác quỷ làm hại để chết.

14. Không bị chết vì ác bệnh.

15. Không bị chết oan (tự tử, bất đắc kỳ tử, …).

Vì những điều nêu trên, Chú Đại Bi có thể trừ được tất cả những tai nạn, những khổ nạn và thành tựu được những toại nguyện. Những ai chí thành trì niệm thì được những điều lợi ích như trên và sẽ được xa lánh mọi ưu bi, khổ não cho chính mình và có thể cứu giúp được tha nhân như Đại bi tâm của Bồ tát Quán Thế Âm.

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.