II.- Phàm Phu Thiền.
Phàm phu thiền cũng gọi là thế gian thiền. Sở dĩ gọi là phàm phu hay thế gian thiền là vì các pháp thiền này chưa có thể đưa hành-giả ra ngoài tam giới, chưa chứng được thánh quả, mà vẫn còn quanh quẩn trong vòng phàm phu hay thế gian. Các pháp như Tứ thiền, Tứ không.v.v…đều thuộc phàm phu thiền.
1.- Tứ thiền tức là 4 giai đoạn tham thiền của phàm phu, đi dần từ chổ nhàm chán cái vui thô thiển đến cái vuivi tế thanh tịnh. Bốn giai đoạn tham thiền này tuần tự diễn tiến như sau:
a.-Sơ thiền, ly sanh hỷ lạc.-Hành giả khởi đầu bằngg tâm lý nhàm chán cái ô trược của cỏi Dục, và mong cầu được xa lìa(ly) được cái ô trược của Dục giới, hành giả sanh vui mừng (sanh hỷ lạc). Ðó là kết quả của giai đoạn tham thiền đầu tiên (sơ thiền).
b.- Nhị thiền, định sanh hỷ lạc.-Nhưng cái vui nói trên, lại làm cho tâm chao động, cần phải dứt trừ; vì thế hành giả phải vào định. Khi định có kết quả, cái vui mừng thô phù của sơ thiền chấm dứt và cái vui mừng vi tế trong định lại nãy sanh; vì thế cho nên gòila” Ðịnh sanh hỷ lạc”.
c.-Tam thiền, ly hỷ diệu lạc.-Cái vui mừng ở cõi nhị thiền mặc dù vi tế, nhưng vẫn còn làm cho tâm rung động, vì thế hành giạlai cần bỏ cái vui mừng ở cõi nhị thiền. Khi bõ được cái vui mừng này, thì một nỗi vui mầu nhiệm khác lại phát sinh; vì thế cho nên gọi”Ly hỷ diệu lạc”.
Trong các kinh thường chép:Cõi tam thièn là vui hơn hết (diệu lạc), vì ở các cõi dưới thì chỉ có vui thô động, còn ở các cõi trênthì chủ là tịch tịnh, không còn vui nữa.
d.-Tứ thiền, xả niệm thanh tịnh.-Ở cõi tam thiền, tuy đã hết cái vui thô đọng của Sơ thiền và Nhị thiền; nhưng vẫn còn cái vui mầu nhiệm. Nhưng hễ còn niệm vui, thì tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh. Hành giả lại phải còn tiến lên một bậc nữa, đi vào cái thiền thứ tư, xã luôn cả cái niệm vui, để tâm được hoàn toà thanh tịnh, vì thế nên gọi là”Xã niệm thanh tịnh”.
2.-Tứ không định.-Sau khi đã trãi qua Tứ thiền và đã thành tựu viên mãn, hành giả tiếp tục tu thiền định và sẽ trãi qua bốn giai đoạn gọi là tứ không định sau đây. Sở dĩ gọi là tứ không, vì khi vào bốn định này, thiên giả sẽ không còn thấy có cảnh thức tâm nữa.
Không vô biên xứ định.-Thiền giả khi đã đạt được tứ thiền, tâm đã được hoàn toàn thanh tịnh, nhung vaãn còn thấy có sắc giới, còn thân còn cảnh và bị nhình săc trói buộc, nên sanh tâm nhàm chán. Ðể rời bỏ các hình sắc về thân và cảnh, thiền giả vào định thứ nhất của tứ không, thể nhập với “Hư không vô biên”,tức là không thấy có ngăn cách, có biên giới của cảnh.
b) Thức vô biên xứ định.-Thiền giả khi đã định thứ nhấtcủa tứ không, rời bỏ được sắc tướng của thân và cảnh, thaáy được cái vô biên của hư không, nhưng vẫn còn giữ cái bản ngã hẹp hòi, vẫn còn thấy biên giới của tâm thức; khi thành tựu, tức thể nhập được vào cõi”Thức vô biên”.
c)Vô sỏ hữu xứ định:-Thiền giả ,mặc dù không còn thấy biên giới, ngăn cách của thức nhưng vẫn còn thấy có ngã, có tâm thức, có năng sở;mà hễ còn thấy năng sở, tức con thấy mình và người , còn thấy có sở hữu. Vậy thiền giả phải vượt lên một tầng nữa, xa lìa sự chao động, năng sở, tức nhập định”Vô sở hữu xứ” (cõi không sở hữu).
d)Phi tưởng, phi phi tưởng xứ định.-Thiền giả khi đã nhập định”Vô sở hữu”, không còn thấy nhân ngã, năng sở, nhưng vẫn còn “tưởng”. Mà còn tưởng thì còn vọng động. Vậy thiền giả phải tiến lên một tầng nữa, vào cõi “Ðịnh không tưởng”. Nhưng không tưởng đây, không có nghĩa là vô triều vô giác như đất đá; không tưởng, nhưng không phải không tưởng của đất đá,. Không tưởng mà vẫn sáng suốt như một tấm gương, nhưng không phải là một tấm ván hay mặt đá. Ðó là ý nghĩa của cõi định” Phi tưởng , phi phi tưởng”.
Có chỗ nói định” Tứ không” thuộc về ngoại đạo , nhưng người tu thiền, bắt đầu từ Sơ thiền đến Tam thiền, lúc baáy giờ có hai con đường tẻ: Một con đường đi về ngũA-na-hàm (1) ở cõi tứ thiên(2) thuộc về cảnh giới của thánh thứ ba (3); một con đường đi về tứ không của cõi Vô sắc, thuọc về ngoại đạo
(1) Ngũ A-Na-Hàm là năm cõi A-Na-Hàm:a) Vô phiền, b).vô nhiệt, c). thiện kiến, d).thiện hiện, đ)sắc cứu cánh.
(2) Tứ thiền có chín cõi ngoài năm cõi A-na hàm, còn có bốn cõi: Vô vân,phước sanh, quảng quả, vô tưởng.
(3)Tiểu Thừa thanh văn có bốn quả thánh A-na hàm thuộc quả thánh thứ ba