Mười Tông Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa

III.-Nhị Thừa Thiền

Nhị Thừa ay Tiểu-thừa thiền, thuộc về xuất thế gian thiền , nghĩa là các người tu theo các loại thiền nầy có thể vượt ra ngoài thế gian, thoát được sanh tử luân hồi. Tuy thế, nnx pháp tu thiền nầy không đem lại một kết quả mau lẹ, lớn lao toàn diên như các lối Ðại-thừa thiền, mà chỉ có tánh cách chậm chạp, tuần tự, cuộc bó, tu một pháp chỉ trừ được phiền não; nghĩa là chứng quả thấp nhỏ, có hạn lượng, nên thuộc về Nhị thừa thiền (Nhị thừa thiền là Thinh văn thừa và Duyên giác thừa).

Nhị thừa thiền có rất những phương pháp tu, như Ngũ đình tâm quán, Thập thứt thế xứ quán, Bát hồi quả, Bát thắng xứ quán, Cửu tưởng quán, Thập lục đặng thắng, Lục diệu pháp môn, Tứ vô lượng tâm, Thông minh thiền, Bát niệm, Thập tưởng, Tứ đệ định, Sư tử phấn tấn, siêu việt tam muội, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo..tóm lại, hành quả của Nhị thừa thiền có thể đem giáo-lý của một hay những pháp môn của Nhị thừa để tham sát tham thiền.

Trong phạm vi hẹp hòi của bai phổ thông nầy, chúng tôi không thể nói hết tất cả pháp môn tu thiền của Nhị thừa được, xin nói sơ lược mọt ít phương pháp . nếu hành giả muốn đi sâu vào con đường tu này, phải chuyên môn học tập, phải nhờ minh sư dạy bảo, phải trải qua nhiều thời gian và nhiều công phu tu tập mới thành công.

1.- ngũ đình tâm quán:

Quán tổ sức, trừ tâm toán loạn

Quán bất tịnh, trừ tâm tham sắc dục

Quán từ bi, trừ tâm sân hận

Quán nhân duyên, trủ tân si mê

Quán giới phân biệt, trừ tâm chấp ngã.

(xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV)

2.- Cửu tưởng quán:

a.-Tưởng thây sình tướng

b.-Tưởng thây hoại diệt

c.-Tưởng máu mủ chảy

d.- Tưởng thây rục rã

đ.- Tưởng thây xanh chàm

e.- Tưởng thây bị giòi rúc rỉa

ê.-Tưởng thây tan rã

g.- Tưởng còn lại đống xương

h.-Tưởng xương bị đốt tiêu.

3.- Tứ vô lượng tâm:

a.-Tâm vô từ vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng vô từ vô lượng, bao bọc chúng sanh trong tình thương rộng lớn vô biên.

b.-Tâm bi vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng bi vô lượng, cứu khổ cho chúng sanh trong năm đường.

c.-Tâm hỷ vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng tâm Hỷ (hoan hỷ) vô lượng, làm cho chúng sanh đều được Hỷ.

d.-Tâm xã vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng Xã vô lượng, không lưu luyến cố chấp một việc gì.

Tứ vô lượng tâm là một pháp môn rất linh nghiệm: Phàm phu tu tứ vô tâm lượng, thì sau khi mạng chung sẽ sanh làm vua ở cỏi Tứ thiền; Nhị thừa tu Tứ vô lượng tâm, thì phước đức được tăng trưởng, mau dặng Niết bàn, bồ tát tu Tứ vô lượng tâm thì lòng từ bi mở rộng vô biên và làm lợi ích cho chúng sanh không xiết kể .

(xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV)

4.- Thập lục đặc thắng:

thập lục đặc thắng tức là mười sáu phép rất đặc biệt thù thắng, có thiền có quán, có đủ các thiền và có thể phát sanh ra quả vô lậu, không phải như Tứ thiền, ứ không, không ra khỏi sanh tử. Mười sáu phép đặc biệt thù thắng này là:

a.- Biết hơi thở vào

b.- Biết hơi thở ra

c.- Biết hơi thở dài ngắn

d.- Biết hơi thở thắp thân

đ.- Trừ các thân hạnh

e.- Thọ hỷ

ê.- Thọ lạc

f.- Thọ các tâm hạnh

g.- Tâm tác hỷ

h.- Tâm tác nhiếp

i.- Tâm tác giải thoát

k.- Quán vô thường

l.- Quán xuất tán

m.- Quán ly dục

n.- Quán diệt

o.- Quán phí xả.

5.- Thông minh thiền:

Thông minh thiền tức là tham thiền để được lục thông và tam minh.

a.-Lục thông tức là sáu phép thần thôngnhư:thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng thông, lậu tận thông.

b.-Tam minh tức là thiên nhãn minh, thiên nhĩ minh, lậu tận minh.

6.- Thập nhứt thế xứ quán:

thập nhứt thế xứ quán tức là phép quán mười món biến khắp các xứ sở, sau đây:

a.- Quán sắc xanh, khắp giáp tất cả chổ

b.- Quán sắc vàng, khắp giáp tất cả chổ

c.- Quán sắc đỏ, khắp giáp tất cả chổ

d.- Quán sắc trắng, khắp giáp tất cả chổ

đ.- Quán đất, khắp giáp tất cả chổ

e.- Quán nước, khắp giáp tất cả chổ

ê.- Quán gió, khắp giáp tất cả chổ

g.- Quán lửa, khắp giáp tất cả chô

h.- Quán hư không khắp giáp tất cả chổ ụ

i.- Quán thức tâm, khắp giáp tất cả chổ

7.- Bát bối xã quán:

Bát xã quán yức là tám phép quán có thể trái bỏ(bối xả) cảnh giới Tứ thiền, tú định của thế gian, dể thành tựu pháp xuất thế gian. Tám phép bối xả quán là:

a.- Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc để trái bỏ cảnh giới Sơ thiền.

b.-Trong không sắc tướng, ngoài quán sắc, để bỏ cảnh giới Nhị thiền .

c.- Quán thanh tịnh để trái bỏ cảnh Tam thiền và Tứ thiền .

d.- Quán trái bỏ Hư không vô biên xứ.

Ð.- Quán trái bỏ Thức vô biên xứ

e.- Quán trái bỏ Vô sớ hữu xứ

ê.- Quán trái bỏ Phi tưởng, phi phi tưởng xứ.

f.- Quán trái bỏ diệt thọ tưởng.

8.- Bát thắng xứ quán:

thắng có nghĩa là thù thắng, là hơn. Tám phép quán nầy về cảnh sở quán, cũng như công đức thu thập được trong khi thu hành, đều thù thắng hơn tám món Bối xã trên, nên gọi là ”Bát thắng xứ quán”’.

a.- Trong có sắc tướng, ngoài có ít sắc, thắng xứ.

b.- Trong có sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ

c.- Trong không sắc tướng, ngoài quán ít sắc ,thắng xứ

d.- Trong không sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ

đ.- Quán sắc xanh, thắng xứ

e.- Quán sắc vàng, thắng xứ

ê.- Quán sắc đỏ, thắng xứ

f.- Quán sắc trắng, thắng xứ

9.- Lục diệu pháp môn:

Lục diệu pháp môn là sáu phép môn mầu nhiệm sau đây:

a) Số. b) Tùy. c) Chỉ. d) Quán. e) Hoàn. f) Tịnh.

(Xem quyển Lục Diệp pháp môn)

10.- Bát niệm xứ:

Với phép quán tám niệm sau nầy,thiền giả sẽ trừ đượcsự sợ hãi khi tu cửu tưởng và sẽ được đạo quả

a)Niệm Phật. b) Niệm pháp . c) Niệm tăng. d) Niệm giới. f) Niệm xả. g) Niệm hơi thở ra vào. h) Niệm chết(nhớ chết).

11.- Thập quán tưởng:

Thập quán tương gồm có:

a). Tưởng vô thường, b). Tưởng khổ, c), Tưởng vô ngã , d). Tưởng ăn vật bất binh, đ). Tưởng thế gian không vui, e). Tưởng chết, f). Tưởng bất tịnh, g). Tưởng đoạn, h). Tưởng lìa, i). Tưởng hết.

12.- Cửu thế đệ định:

Cửu thế đệ định là 9 món thiền-định mà thiền-giả sẽ tùaan tự theo thứ lớp tu-luyện: từ Sơ-thiền đến Tứ-thiền, rồi đến Tứ-định, và cuối cùng, cộng thêm định Diệt-thọ-tưởng là chín món tất cả.

13.- Sư-tử phấn tấn Tam-muội:

Với pháp thiền này, hành-giả bắt đầu tham-thiền như pháp Cửu-thứ-đệ định nói ở trên, nghĩa là bắt đầu từ Sơ-thiền đến thiền-định thứ chín là Diệt-thọ-tưởng định, rồi đi ngược trở lại, từ thiền thứ chín đến Sơ-thiền. Thiền-giả tới lui trong thiền-định một cách thông suốt, tự-tại, đường hoàng, oai nghi như dáng đi đứng, tiến thoái của con sư-tử, nên gọi là ”Sư-tử phấn tấn tam-muội ”. Kết quả của lối thiền này, nếu được hòan toàn siêu-việt thì thiền-gỉa sẻ là Bồ Tát. Nếu không hoàn-toàn tự-tại và chưa siêu-việt thì thành Thanh Văn.

14.-Ba mươi bảy pháp trợ đạo:

Thiền-giả cũng có thể lấy một pháp-môn hay nhiều pháp-môn trong số 37 pháp trợ-đạo để tham-thiền, tu-luyện. Ba mươi bảy pháp trợ-đạo đã có nói rỏ trong Phật-học Phổ-thông khóa ba. Ơí đây, chúng tôi chỉ xin nhắc qua để quý độc-giả nhớ lại thôi:

a). Ngũ căn b). Ngũ lực

c). Tứ chânh cần d). Tứ như ý túc

đ). Tứ niệm xứ e). Thất Bồ-đề phần

ê). Bát chánh đạo phần.

Kết Luận Về Nhị Thừa Thiền

Các pháp tu thiền của Nhị-thừa hay Tiểu-thừa nói trên, như quý độc-giả đã thấy, nhiều không thể kể xiết. Tuy thế, hành-giả muốn cho có kết quả, phải chọn lựa phương pháp nào thích-hợp với trình-độ của mình, chứ không phải gặp pháp môn nào tu theo pháp-môn nấy được. Sự lựa-chọn nầy cũng cần được các bậc thầy hướng-dẫn. Vì-thế, chúng ta thường nghe ngày xưa các vị chaan tu đi ” cầu pháp ”, hết xứ nầy đến xứ nọ, không quản công lao khó-nhọc, có nhiều khi hy-sinh cả tính mạng nữa. Cầu pháp nghĩa là tìm cầu minh sưchỉ dạy phương-pháp tu hành, như Ngài Thiện-Tài đi tham-cầu 53 vị Thiện-triều-thức, Ngài Huyền-Trang đi khắp nước Trung Hoa rồi sang Ấn Ðộ để cầu Pháp. Hành-giả sau khi được vị minh-sư nhận lời, còn phải theo hầu hạ một thời-gian rất lâu để vị minh-sư ấy quan sát, thăm dò căn cơ, trình độ một cách chu đáo, như Ngài Xá-lợi-phất đem pháp Sổ-tức dạy người giữ nghĩa-địa, hay pháp quán Bất-tịnh dạy người thợ rèn tu, thì chỉ hoài công vô ích, chứ không kết-quả gì hết.

Hành-giả cũng nên nhớ một đeiều nữa, là trên bước đường tu hành chớ nên bôn-chôn, nóng-nảy vô ích. Sự tu hành củng như trồng cây, không theẻ nóng nảy được. Người trồng cây, lo vô phân tưới nước, làm đây đủ bổn phận của mình, rồi kiên-nhẫn chờ đợi; đến khi đủ sức đúng thời tiết, cây sẽ tự đơm bông trổ trái một cách tự nhiên.

Người tu hành củng vậy, cứ hằng ngày lo tu tập, tích-trữ nhiều năm, đến khi công tròn quả mãn, thì được mminh tâm kiến tánh.

Hãy nhớ rằng tu-hành phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp, chứ không thể mới một hai đời mà thành Phật được.

This entry was posted in Phật Giáo. Bookmark the permalink.