Ý Nghĩa Tu Gia Hạnh Phổ Hiền II

TẤT CẢ KINH PHẬT NÓI TỪ KINH NGUYÊN THỦY CHO ĐẾN KINH ĐẠI THỪA CUỐI CÙNG QUY VỀ PHÁP HOA.

Mở đầu kinh Pháp Hoa là kinh Vô Lượng Nghĩa. Kinh Vô Lượng Nghĩa gồm thu cả tam thừa giáo. Thật vậy, Thanh văn tu 37 trợ đạo phẩm và cuối cùng thân khẩu ý đều thanh tịnh mới vào được thế giới chân thật, đó là con đường thứ nhất để vào Pháp Hoa.

Con đường thứ hai của Duyên giác do quán sát 12 nhân duyên thấy được sự thật của các pháp. Thật là sanh diệt mà muốn không sanh diệt không thể có, muốn trẻ không già không được. Tất cả muôn vật đều thay đổi trong từng sát na. Có người thương muốn giúp đỡ ta, nhưng ngày mai, họ không còn ý đã hứa nữa, chúng ta không nên buồn giận khổ. Phật dạy tâm vô thường, nay nghĩ vầy, mai nghĩ khác là bình thường. Vì vậy, nhìn sự vật bên ngoài thay đổi mà biết tâm chúng ta thay đổi. Khi nào tâm chúng ta thật thanh tịnh, phước đức hiện ra, người sẽ hợp tác, nhưng ít ai nghĩ rằng tâm mình thay đổi, cứ nghĩ hoàn cảnh bên ngoài thay đổi. Hàng Duyên giác quán nhân duyên, thấy biết sự thay đổi là lỗi lầm quá khứ của mình, hay quán những kiếp trước thì thấy ngay điều này.

Trong một mùa an cư, có một đại thí chủ hứa cúng dường Phật và chư Tăng trong ba tháng, nhưng đến mùa an cư, không thấy ông đại thí chủ đã hứa đâu cả. Các Thầy chưa đắc đạo lo lắng, còn Phật vẫn thanh thản và nói rằng đây là túc nghiệp của Ngài. Phật cho biết đời trước Ngài phạm một lời nói ác khi thấy Tỳ kheo đi khất thực mà nói rằng người này còn khỏe mạnh mà không chịu làm việc, lại đi xin. Ngài bảo người làm cho lúa ngựa, không cho cơm. Khởi một ý niệm ác và làm ác ở kiếp quá khứ như vậy mà nay quả báo tới. Chư Tăng không có thức ăn, thì có một người lái buôn đem cúng Phật và Tăng chúng thức ăn của ngựa. Làm Phật có phước báu thì trả quả báo khác với chúng sinh thọ quả báo. Phật trả quả báo này như thế nào? Người buôn ngựa thật ra là Trời Đế Thích biết việc này, nên hiện ra để cúng dường Phật và Tăng chúng.

Duyên giác thừa dành cho người có trí mới quán sát được. Không có trí tuệ phải đi vào Thanh văn thừa, tức nhờ quán pháp Phật dạy mà tâm lắng yên. Còn Duyên giác quán sự vật bằng trí tuệ của mình, nên tâm không phiền muộn.

Con đường thứ ba của Bồ tát đi vào Pháp Hoa là hành Bồ tát đạo, tất nhiên gặp nhiều việc ngang trái, nên khó tránh khỏi khởi tâm. Ví dụ khi ta giúp người, nhưng họ không vừa lòng, ta sẽ buồn phiền. Có Phật tử nghe Thầy thuyết pháp thấy ăn mày nên thương, bố thí cho họ, nhưng khi ra về nhìn thấy người ăn mày sống sung sướng hơn mình, ăn ngon còn đánh bạc. Bà này bực tức, nghĩ không bố thí nữa. Đó là Bồ tát mới phát tâm thấy khổ của chúng sinh thì giúp đỡ, nhưng thấy họ dối trá thì bực tức, là bố thí không có trí tuệ chỉ đạo dễ sanh phiền não, trần lao, nghiệp chướng. Giúp người không đúng, chẳng những không có phước, mà ta còn gánh thêm nghiệp của họ. Có người phải để cho đói khổ, họ mới tu được; với người như vậy, giúp họ là ta phá pháp. Ví dụ vào chùa thấy ông đạo hiền lành, dễ thương. Ta liền đưa ông về nhà mình để nuôi, rồi thấy ông ấy không làm được gì, vì ở chùa ổng chỉ tụng kinh thôi. Có trí tuệ, ta giúp ông đạo ở chùa tu, đừng bắt đem về nhà. Có trí tuệ biết nó là ăn mày giả thì không cho, vì cho là tiếp tay với người xấu. Ở Nhật Bản không có người ăn xin, vì không ai cho.

Tu Bồ tát hạnh, cần có trí tuệ quán sát để hành bố thí. Phật dạy bố thí để tâm tham luyến tài vật không còn, tâm chúng ta được giải thoát, mới vào đạo được. Đức Phật bỏ ngôi báu đi tìm chân lý để xem lòng còn tiếc hay không. Phật thấy ngôi báu là chỗ tranh giành giết chóc đáng sợ và thấy cuộc sống sung sướng của vua làm cho bao nhiêu người phải hầu hạ, chăm sóc Ngài thì đó là quả báo phải trả, gần là hao tổn tiền bạc của dân, xa là bị tổn phước, nên cuộc sống như vậy không thể tồn tại lâu dài. Thực tế cho thấy người có phước làm vua trong khoảng thời gian dài, người phước ít chỉ ở ngôi vị một thời gian ngắn, thậm chí có người vừa lên ngôi vua là chết.

Bố thí là xả bỏ vật chất để xem tâm phiền não còn hay không. Nếu lòng tham còn, ta phải sám hối, đoạn trừ tâm tham ái để vào đạo. Tham ái có ba thứ chính là tham danh, tham lợi và tham tình ái. Đoạn ba thứ tham này, các loại tham khác không còn tác dụng. Có người nói với Thầy rằng không thể đi tu được, vì sự nghiệp của ông tạo bằng mồ hôi nước mắt trong 40 năm, làm sao bỏ được. Nếu bị kẹt cứng với sự nghiệp vật chất như vậy thì sau khi chết, sẽ thành ma giữ của, không đi đầu thai được. Trên thực tế, chúng ta thấy những lâu đài xưa thường có âm khí vì chủ nhân là các hồn ma vẫn còn bám víu nơi đó.

Tu Thanh văn dễ xả bỏ, vì họ ôm bình đi khất thực, ngủ ở gốc cây, không có gì để nắm giữ và để luyến tiếc, nên họ vào đạo dễ dàng và tiến tu được. Hàng Duyên giác tu pháp quán cũng dễ đi tới được. Còn hành Bồ tát đạo độ người nhiều, nhưng cũng dễ phát sinh phiền não, trần lao, nghiệp chướng, dễ bị đọa.

Tu Bồ tát đạo phải có đạo đức và trí tuệ ví như hai cánh tay để hành đạo. Còn chúng ta không đắc đạo, không trí tuệ, mà làm thì dễ bị phiền não, nghiệp chướng và trần lao tác hại. Người có đạo đức hiện hữu nơi nào cũng được người kính trọng và nói gì thì người cũng tin theo, hoặc có bố thí dù là vật không có giá trị, người nhận cũng trân quý. Nhưng chúng ta không phải mẫu người này, nên luôn cộng nghiệp với người mà chúng ta giúp, cho nên ta tu rất khó.

Muốn tu Bồ tát đạo, Phật khuyên mình nên làm quyến thuộc với Bồ tát, không phải tự làm; ví như có tiền nhưng không biết kinh doanh thì mình đầu tư cho người khác làm sẽ có lời, còn tự làm thì mất vốn, đó là cái khó của Bồ tát đạo. Hành Bồ tát đạo, phải hợp tác, nhưng phải coi hợp tác ở đâu, với ai. Nếu có Phật ra đời, Ngài không bao giờ sai lầm, nên chúng ta đầu tư cho Phật, hoặc đầu tư cho Bồ tát. Các Ngài làm nên đạo nghiệp lớn, trong đó có phần của mình. Chúng ta tự làm thường kẹt vào việc cầu danh, dễ bị đọa.

Tu theo Thanh văn, Duyên giác, hay Bồ tát, nói chung tất cả kinh điển Phật dạy cũng đòi hỏi chúng ta đến mức thánh thiện là tâm trí lắng yên. Người tu Tịnh độ chọn pháp niệm Phật, trì kinh và nương theo vị Thánh Tăng nào thể nghiệm được pháp này có kết quả để tu. Niệm Phật đến mức tâm trí lắng yên như vào Thiền định, hay được nhất tâm bất loạn, không có nghiệp, phiền não và trần lao; bấy giờ hành giả mới thấy Phật và Thánh chúng phóng quang tiếp độ và nương theo ánh sáng đó thì vãng sanh Tịnh độ.

Khi chúng ta nhìn tượng Phật để tập trung đến mức thuần thục, nhìn đâu cũng thấy Phật, nghĩ là Phật, nhờ vậy hạn chế được lỗi lầm, nghĩa là nghiệp chúng ta nhẹ lần, sau mới vào thế giới Phật được. Theo kinh nghiệm của Thầy, hành Bồ tát đạo, nhưng tâm luôn tập trung vào Phật, cho nên gặp người xấu ác, Thầy cũng nghĩ họ là Phật, sanh tâm kính trọng họ. Người xấu mà mình nghĩ là tốt; như vậy trong tâm mình là thiện rồi. Tâm tạo ra tất cả các pháp là thế. Nếu mình thấy họ xấu và ghét họ, làm sao họ thương mình được. Phật dạy Bồ tát Địa Tạng vào địa ngục để độ sanh, nên tìm cái tốt của người mà nghĩ, đừng thấy cái xấu, dù điều tốt của người nhỏ nhoi mỏng manh bằng sợi tơ cũng nên cứu độ họ. Chỉ thấy cái tốt thì người xấu nào cũng trở thành tốt được. Trên cuộc đời này, giới giang hồ là người xấu nhất, điển hình như Liên Hoa Sắc mà Đức Phật nhìn bà này cũng thấy được điểm tốt của bà, nên bà đã phát tâm xuất gia theo Phật và thành A la hán. Thấy điều tốt và phát huy cái tốt của họ, lần lần họ cũng tốt và tu được.

Ba con đường Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát, kinh Pháp Hoa gọi là ba xe và Nhà lửa tóm lược tất cả kinh điển để giúp hành giả ra khỏi cảnh khổ đau và tâm trí được lắng yên, mới có đạo, có đời sống tâm linh thật sự mà kinh diễn tả là tới bãi đất trống mới lên đại bạch ngưu xa và có Pháp Hoa. Còn ở trong Nhà lửa không có Pháp Hoa. Có Pháp Hoa vì tâm thanh tịnh và trí sáng suốt. Tới được Pháp Hoa, bốn biển là nhà, thân trùm pháp giới. Vì vậy, khi người thấy ta còn khó chịu là vì ta chưa tới Pháp Hoa, thân tâm ta chưa thanh tịnh, trí chưa sáng suốt.

Tu Pháp Hoa là tu ở Ta bà đầy khổ lụy, nhưng ta không khổ, không nhiễm bùn, tức tâm chúng ta không tham, không buồn phiền, ví như hoa sen và trí tuệ, đạo đức tỏa hương thơm. Trên tinh thần này, tuy nói ra khỏi Nhà lửa tam giới nhưng ra mà không ra, vẫn ở đây, ở trong bùn, nhưng là hoa sen tinh khiết.

Thanh văn vào Niết bàn là sai, vì như vậy là rơi vô sự vô cảm trở thành gỗ đá. Trước kia, Thanh văn tu pháp Không để tâm thanh tịnh, nhưng đắc đạo rồi, là Thánh A la hán thì phải biết, phải nghĩ, phải thương đời. Giai đoạn trước, chúng ta tu Thanh văn để tâm lắng yên, thấy được pháp cao siêu hơn để cứu đời. Cho nên ra khỏi Nhà lửa tam giới rồi, tâm không còn buồn, giận, lo, sợ, để vào hội Pháp Hoa; nhưng muốn được như vậy, phải đối cảnh là ở trong hoàn cảnh đáng buồn giận, lo sợ, nhưng chúng ta không buồn giận, lo sợ. Còn chúng ta ở chỗ yên ổn thì có gì mà sợ. Đáng buồn giận, lo sợ chỉ có ở Ta bà, ở Cực lạc không có bốn thứ này thì sen cũng không mọc được. Vì vậy, Phật dạy rằng không có phiền não, nghiệp và chúng sinh sẽ không có Bồ tát.

Nhận thức được yếu nghĩa như vậy, chúng ta ở Ta bà mở mắt huệ để thấy Bồ tát mà chúng ta hợp tác tu hành. Ở Ta bà mới có Bồ tát hành Bồ tát đạo. Ví dụ ở đây bố thí thì thiếu gì người xin, ở đây biết một nghề nhỏ cũng dạy được người. Ở nước văn minh phải giỏi mới dạy được. Người giàu có vào Việt Nam đầu tư vì nhân công rẻ. Chúng ta khổ quá nên muốn bỏ khổ mà chạy, nhưng làm sao chạy khỏi, vì nghiệp giống như cái đuôi của con trâu dính chặt với nó.

Thầy tin ở chỗ khổ có nhiều Bồ tát hiện thân vô để tạo quyến thuộc Bồ đề mới có công đức. Nhiều Thầy nói rằng Thầy về Việt Nam tìm cái chết, nhưng nay quý vị đó thấy Thầy ở Việt Nam làm được nhiều việc hơn. Ở Ta bà có rất nhiều Bồ tát mà cụ thể chúng ta tôn thờ là Bồ tát Quan Âm. Ngài có 32 hiện thân, nên Ngài hiện hữu trong giai cấp thợ thuyền, công chức, v.v…, trong tầng lớp xã hội nào cũng có người tốt, chúng ta tìm làm bạn với họ để cùng làm Phật sự. Nếu họ là vua biết làm việc thiện, biết lo cho dân, chúng ta ủng hộ để kiếm một phần công đức.

Ta bà và Tịnh độ theo Pháp Hoa là một, vì tâm tịnh là độ tịnh, tâm chúng ta thanh tịnh thì Ta bà này thanh tịnh. Xá Lợi Phất nghe Phật giới thiệu Tịnh độ mười phương mới nghĩ chẳng lẽ Phật Thích Ca không thanh tịnh hay sao mà thế giới của Ngài đầy hầm hố gai chông. Trời Đế Thích mới hiện ra nói rằng vì tâm Xá Lợi Phất hầm hố nên thấy vậy, còn ông thấy thế giới Phật Thích Ca đẹp hơn cung Trời tam thập tam thiên.

Ở thế giới chúng ta đang sống có Tịnh độ, nhưng tâm ta không thanh tịnh, mới không vào Tịnh độ được. Và không vào Tịnh độ, tâm ta nhiễm ô khổ đau. Thiết nghĩ ít nhất lúc chúng ta trì kinh thanh tịnh thì thế giới Tịnh độ đã hiện ra cho chúng ta.

Thâm nhập được thế giới Pháp Hoa, trước tiên phải có hoa Mạn đà la và Mạn thù sa, tức tâm họ thanh tịnh và an lạc thì có Pháp Hoa; không có hai trạng thái này là Ta bà. Nếu vào Tịnh độ, tâm họ thanh tịnh, sẽ hiện tướng giải thoát và được người quý trọng. Còn tâm không thanh tịnh phải đối đầu với phải trái hơn thua. Ý này muốn nói yếu chỉ là Phật vào Thiền định thì tất cả chúng hội đều vào Thiền định và thanh tịnh theo. Nói cách khác, nghĩ đến Phật thanh tịnh, chúng ta thanh tịnh theo, cái này là Phật cho. Thực tế cho thấy khi đứng trước một người đức hạnh, hay người quyền uy, hoặc người hung dữ, tâm chúng luôn bị tác động. Vì vậy, chúng ta tìm lực tác động tốt nhất là của Phật, của Bồ tát. Tâm chúng ta lắng yên sẽ gặp Phật, tâm chúng ta thương người sẽ gặp Bồ tát. Và tiếp cận được với Phật, với Bồ tát, nhận được sự hộ niệm của các Ngài, tâm chúng ta càng lắng yên hơn, lòng thương người càng lớn hơn và làm được nhiều việc lợi ích cho đời hơn.

Giữa ta với Bồ tát mười phương và Bồ tát nhân gian có mối tương quan tương duyên để hỗ trợ nhau. Vì vậy, ta tìm Bồ tát nhân gian và có ý tốt về họ, họ nghĩ tốt về ta. Thầy làm đạo được là nhờ người giúp, gọi là Hộ pháp thần dương, tức là người hiện hữu trên cuộc đời này. Còn nghĩ người xấu ác, lần lần người xấu ác với ta tăng lên. Hôm nay chúng ta thân với họ, nhưng ngày mai, ta nghĩ họ xấu, là đã biến bạn thành thù. Nếu ta tốt thực, Bồ đề quyến thuộc sẽ đông thêm, mới làm được Phật sự. Tu Pháp Hoa phải thực hiện hạnh Bồ tát, ở ngay Ta bà tội lỗi này mà phải vươn lên tỏa hương thơm cho đời.

Tất cả các kinh Phật nói trong 49 năm đều có cốt lõi và người tu Bổn môn Pháp Hoa muốn tìm cốt lõi, không chấp hình thức bên ngoài. Vì vậy, phải hiểu nghĩa lý bên trong và tu đạt được kết quả; không hiểu cốt lõi thì tu suốt đời chỉ là người nấu cất muốn thành cơm. Tất cả kinh đều trở về kinh Pháp Hoa, nên các vị Thánh Tăng gọi là đồng quy giáo, nghĩa là trăm sông đổ ra biển. Kinh Pháp Hoa ví như biển và các kinh khác là sông, cho nên kinh Pháp Hoa bao gồm tất cả phương tiện và kinh Pháp Hoa còn có tên khác là kinh Vô Lượng Nghĩa, tức không có một nghĩa cố định, nhưng đứng ở mặt nào, Pháp Hoa cũng thu nhiếp được và điểm chính yếu của vô lượng nghĩa là đạo đức, trí tuệ và phải có lợi ích cho người. Cốt lõi của kinh Pháp Hoa, hay cốt lõi của đạo Phật là ba điều này.

Kinh Pháp Hoa được coi là cốt lõi của đạo Phật, hay Phật thừa, còn các kinh khác thuộc Thanh văn thừa, Duyên giác thừa hay Bồ tát thừa, tức được một trong ba điều chính yếu vừa nói. Trên bước đường tu, đương nhiên Thanh văn thừa và Duyên giác thừa cũng cần thiết, vì không học sẽ phạm sai lầm, nhưng học mà không làm thì uổng phí. Hành Bồ tát đạo lấy việc học và làm lợi ích là chính, nhưng càng giỏi, ta càng khiêm tốn là có đạo đức. Làm nhiều việc, nhưng không nghĩ đến thành tích. Hành Bồ tát đạo làm gì cũng được, nhưng phải được đánh giá là có đạo đức, có trí tuệ và làm lợi ích, thì như vậy chúng ta vào được kinh Pháp Hoa là vào bằng cửa vô lượng nghĩa. Tất cả các pháp môn đều vào Pháp Hoa được, nhưng phải có đủ ba tiêu chuẩn này.

Vào cửa Pháp Hoa là ra khỏi Nhà lửa tam giới, đến bãi đất trống, tức phải xả bỏ tất cả, còn giữ lại một chút gì cũng không được. Ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh, đến chùa Lôi Âm phải qua sông, nhưng không có cây cầu. Ngài sợ quá khi thấy có một cái cầu như một lằn tên bắn ra rồi biến mất, nhằm chỉ rằng khi tu hành, có lúc tâm ta thanh tịnh, tâm đứng yên, ta quên nhà cửa, việc làm, quên người thân và quên cả thân xác này, thì bấy giờ, ta liên hệ được Phật; nhưng khi tâm vọng động, mối liên hệ này tự biến mất. Thầy Huyền Trang quên tất cả, nhưng còn nhớ cái thân của Ngài, nghĩa là trước cái chết, tự nhiên sợ chết. Vì vậy, Huyền Trang không lên cái cầu của Tâm được và ông nhìn từ xa có một chiếc thuyền tới. Thuyền tiêu biểu cho giáo pháp chúng ta học. Chúng ta không thể qua sông mê bể khổ, nên phải bám vào giáo pháp để tu và để xóa phiền não trần lao. Thầy Huyền Trang thấy thuyền mừng quá, cũng như Tổ Thiên Thai gặp được kinh Pháp Hoa, mừng quá, phát khóc; vì Ngài muốn tới với Phật, nhưng không có cách nào, nên gặp được kinh là phương tiện thì mừng quá. Ngài chuyên tụng kinh Pháp Hoa đến thuộc lòng và thâm nhập cốt lõi của kinh. Ngài thấy thế giới Phật hiện ra. Nghĩa là tụng kinh văn tự, rồi tụng yếu nghĩa của kinh, quên đi văn tự kinh là tu Bổn môn, thì tâm thanh tịnh. Phật hiện ra, nên Ngài nói hội Linh Sơn chưa tan.

Thầy Huyền Trang thấy chiếc thuyền không đáy, nên sợ, không dám xuống, điều này nhằm chỉ rằng chúng ta tu, nhưng chưa dứt khoát. Tổ dạy rằng sơn cùng thủy tận là chỗ ngộ đạo, đến mức tuyệt mạng tuyệt thể mà tâm sáng lên mới qua được bờ giải thoát. Trên bước đường tu, đến lằn ranh giữa sống và chết là quan trọng nhất, chúng ta tu để chuẩn bị điều này.

Tôn Ngộ Không xô Huyền Trang té xuống thuyền và Thầy bám vô thuyền, thấy có một xác người giống mình trôi trên sông. Còn sống thì nghĩ thân xác này là mình, chết thì nghĩ thân này là sở hữu của mình. Và khi tu hành, nhận ra được thân mình là một khối nghiệp mới bắt đầu sửa, sửa sao cho tác phẩm của mình tuyệt hảo. Khi con người mình hoàn hảo là tâm thế nào thì hình thế ấy. Chúng ta dùng tâm chỉnh sửa thân sao cho mọi người quý mến được, đó là tu.

Rớt xuống sông, Ngài Huyền Trang mới nhận ra xác mình, còn chân thân thì hoàn toàn tự tại. Ngồi trên thuyền không đáy, hay tới cửa Không, tới bãi đất trống là đến đây mới có đại bạch ngưu xa. Vì kinh Pháp Hoa làm cho chúng ta giải thoát, được an lạc trong cái bất an. Sống trong xã hội này, tất cả mọi người lo sợ, nhưng ta tu Pháp Hoa không lo sợ, không buồn giận. Còn buồn giận lo sợ là chưa vào Pháp Hoa. Nếu chúng ta sống với chân tâm thì lửa không đốt được, ác ma không hại được, thì ta sợ gì. Thầy làm được Phật sự nhờ đặt niềm tin trọn vẹn ở kinh, ở Phật. Thầy nghĩ sống cho tốt và chết thì có Phật cứu, ta về thế giới Phật. Thậm chí có ý nghĩ táo bạo, thích chết trong nguy hiểm để có đóng góp cho đạo trước khi ra đi.

Tu Pháp Hoa cảm nhận sự an ổn ngay trong trần gian, còn tu Tịnh độ nghĩ Ta bà không an, phải về Cực lạc. Tu Pháp Hoa, Phật dạy nếu tâm chúng ta an thì chỗ đó an. Có thế giới Pháp Hoa thật là thân như hoa sen và tâm như ngọc sáng, tức có đạo đức và trí tuệ. Còn chưa có gì thì tụng 100 bộ kinh Pháp Hoa để mong hoàn cảnh tốt hơn và được hưởng thụ nhiều hơn thì làm sao có được.

Khi có Pháp Hoa, kinh diễn tả có hoa Mạn đà la tiêu biểu cho nguồn vui của tâm và hoa Mạn thù sa tiêu biểu cho sự trong sạch. An lạc và trong sạch là cốt lõi của Pháp Hoa.

Thân của hành giả Pháp Hoa ví như hoa sen là sống trên cuộc đời này mà không nhiễm ô điều gì, hoàn toàn thanh thản. Vì vậy, bắt đầu tu, không cần chỗ ở, ở đâu cũng được. Phật dạy Tỳ kheo cuộc hành trình trên thế gian, hay hành trình trong đạo, đi mãi, không kẹt chỗ ở thì tâm được giải thoát một phần. Chỗ ở của chúng ta nhỏ nhất theo NgàiVinh Tây, vị Tổ sư Nhật Bản nói rằng nếu nằm thì chỉ một chiếu, còn ngồi thì chỉ nửa chiếu. Một chiếu có bề dài 2 mét, bề ngang 7 tấc. Đừng lệ thuộc chỗ ở nhiều để tâm không bị vướng mắc. Nhiều người giàu nói có đất ở khắp nơi là tâm họ bị kẹt nhiều, nên càng giàu càng khó tu. Không lệ thuộc chỗ ở trước nhất sẽ thấy phước báo hiện ra là phước báo của chư Thiên, chánh báo ở đâu thì y báo ở đó.

Khi thành đạo ở Bồ đề đạo tràng, Đức Phật chứng tam minh và khi Phật kết thúc lộ trình hoằng pháp bằng kinh Pháp Hoa cũng có tam minh. Tại Bồ đề đạo tràng, Phật đã nhập Vô lượng nghĩa xứ định, tức tâm lắng yên và cũng có hoa Mạn đà la, hoa Mạn thù sa là Phật đã chứng được tâm an lạc và tâm trong sạch thì cảnh giới giác ngộ hiện ra.

Đầu tiên, Phật thấy được Túc mạng minh, tức Ngài bắt đầu quan sát nghiệp thân của Ngài từ quá khứ lâu xa cho đến hiện đời, thấy rõ con người thực của Ngài là thấy cái tốt và cái chưa tốt. Phật quán sát kỹ như vậy để điều chỉnh cho đến toàn thân thể hiện 32 tướng hảo, 80 vẻ đẹp và vô số việc làm thánh thiện, không còn việc gì làm phiền Ngài được. Ngài hoàn toàn trong sạch.

Và chứng Túc mạng minh, tâm sáng suốt, thân trong sạch, bắt đầu quán sát cuộc đời thì Ngài chứng Thiên nhãn minh là thấy khắp vũ trụ, thấy tất cả chư Phật và Bồ tát cùng chúng sinh. Nhờ thấy đúng như vậy, nên Phật giáo hóa chúng sinh không chướng ngại, thấy người ở tiền kiếp từng được Ngài cứu độ, hay họ từng gây khó khăn cho Ngài.

Tới Vô lượng nghĩa xứ tam muội ở thời Pháp Hoa, Phật làm cho tất cả mọi người trong chúng hội thấy được tất cả, là thấy theo kinh và vào định mới thấy như vậy. Vì vậy, tu giáo pháp Phật, ta thấy y như Phật dạy. Phật khai phương tiện để chúng ta tu hành và tới Pháp Hoa, tâm trí ta lắng yên, vào định, sẽ thấy được những điều Phật đã thấy ở Bồ đề đạo tràng. Ở Bồ đề đạo tràng, Phật thấy Pháp giới; ở hội Pháp Hoa, Phật làm cho chúng hội thấy Pháp giới.

Ta nương Pháp Hoa tu để thấy như Phật là thấy tất cả chúng sinh trong sáu đường sanh tử, họ khổ thế nào, hay họ sướng ít mà khổ nhiều, là thấy địa ngục A tỳ và sung sướng là ở trời Hữu đảnh, nhưng hết phước cũng bị đọa. Thấy như vậy là chúng ta thấy rõ sự thay đổi của chúng sinh trong luân hồi sanh tử, sướng đó rồi khổ đó.

Các Tỳ kheo học kinh Nguyên thủy để thấy cuộc đời thực và trải qua một thời gian tu hành, thấy xa hơn là thấy cái khổ của thế gian và thấy cái an lạc của xuất thế, tức thấy người tu trong Thiền định, thấy trong ánh quang, hay thấy trong kinh. Và cuối cùng thấy Bồ tát hiện hình cứu độ vô số chúng sinh, đó là bức tranh hiện lên cho chúng ta tu. Khởi đầu, chúng ta thấy trong kinh có Bồ tát Quan Âm, Địa Tạng, nhưng tu Thiền định đến hội Pháp Hoa, mới thấy các Ngài thật sự hiện hữu trong vô hình và cả trong cuộc đời này.

Việc quan trọng khi tu Pháp Hoa phải mở mắt huệ để thấy ai là Bồ tát để chúng ta theo. Phật dạy rằng tất cả Bồ tát đều hiện thân trên cuộc đời làm vua, hay làm trưởng giả, làm cư sĩ, thậm chí làm đồng nam, đồng nữ, v.v… Nghĩa là trong mọi tầng lớp xã hội đều có Bồ tát trong đó, không nên chấp vào một giới nào là siêu đẳng. Một đứa bé có đạo đức, chúng ta vẫn tôn trọng, vì có thể nó là Bồ tát tái sanh, điển hình như Lý Công Uẩn là đứa bé bị bỏ rơi ở cửa chùa, ai biết sau này, cậu bé ấy làm vua. Nhìn kỹ có đứa bé có đạo đức, có thông minh hay không, có làm lợi cho đời hay không, đó là ba tiêu chuẩn để chúng ta định vị là Bồ tát. Và thấy ông Thầy tu cũng căn cứ trên ba điều này. Và nhìn ra xã hội, thấy các trưởng giả, cư sĩ, vua chúa cũng có người đáng quý trọng. Phật pháp được hưng thạnh ở thời vua A Dục, còn vua chống phá đạo Phật thì làm sao đạo Phật tồn tại. Nhìn bề trong của vua A Dục để thấy được tư chất Bồ tát, nếu không là người siêu việt không thể thống nhất được Ấn Độ, không là Bồ tát thì không làm được việc lớn. Hoặc thấy Bồ tát ở trong tâm của ông vua, ông tướng, như vua Trần Nhân Tông, tướng Lý Thường Kiệt.

Hòa thượng Trí Tịnh nói rằng các Thầy chứng trai có bao giờ nghĩ các vị quỳ ở dưới là Bồ tát hay không. Vì Pháp sự làm được phải có người có tấm lòng mộ đạo và hằng tâm hằng sản.

Khi tâm thanh tịnh, thấy Bồ tát ở siêu hình và nhìn cuộc đời này, ta cũng thấy họ, mới kính lễ họ. Hòa thượng Trí Thủ học với bác Lê Đình Thám, nhưng vẫn coi ông này là Bồ tát.

Nhìn theo kinh Pháp Hoa, từ thế giới thực đi vào thế giới tâm linh và từ tâm linh nhìn lại cuộc đời, coi ai ban vui cứu khổ thì ta coi là Bồ tát và họ làm được việc khó như Đức vua Trần Nhân Tông, hay Trần Hưng Đạo, ta kính trọng, coi họ là Phật, là Thánh. Vào Vô lượng nghĩa xứ định để thâm nhập được thế giới Bồ tát và trở lại cuộc đời, ta làm bạn, hay cầu học với các Ngài.

Ở giai đoạn các thập niên trước, đạo tràng chúng ta chưa có kinh Bổn môn Pháp Hoa. Chúng ta tụng kinh Pháp Hoa 28 phẩm là tu Tích môn, nhưng nương vào 28 phẩm này để tìm cốt lõi bên trong của kinh. Và đến thập niên 90, quý Thầy thuộc Nhật Liên tông của Phật giáo Nhật có dịp trao đổi với Thầy về Bổn môn. Qua pháp đàm như vậy, Thầy nhận ra được ý nghĩa Bổn môn, thì trong một thời gian rất ngắn, chỉ một tuần lễ Thầy đã biên soạn được 7 phẩm Bổn môn Pháp Hoa, mỗi đêm Thầy biên soạn được một phẩm do cảm được ý nghĩa sâu xa bên trong của 28 phẩm Pháp Hoa.

Từ việc tụng kinh Pháp Hoa 28 phẩm kết tinh lại thành 7 phẩm Bổn môn Pháp Hoa kinh, đó là tâm đắc của Thầy gặt hái được trên bước đường thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh. 7 phẩm Bổn môn Pháp Hoa mang ý nghĩa rất quan trọng.

A. CỐT LÕI CỦA PHẨM TỰA THỨ NHẤT

Phẩm Tựa thứ nhất chủ yếu nói đến vô lượng nghĩa, tức tóm lược tất cả các kinh của Phật đều nằm trong phẩm Tựa. Như chúng ta đã biết kinh của Phật nói là phương tiện, nhưng đưa chúng ta đến chỗ an lạc. Thật vậy, kinh Phật nhằm làm cho tâm chúng ta thanh tịnh và được an lạc là chính yếu. Dù ở hoàn cảnh nào cũng được an lạc, đặc biệt là tu Pháp Hoa, phải được an lạc trong khổ lụy trần gian, còn ở chỗ an mà được an là bình thường. Ở chỗ không an lạc, nhưng ta vẫn tìm được an lạc là sen trong bùn. Và khi tâm chúng ta an lạc và thanh tịnh được thì sẽ xuyên suốt 2500 năm để chúng ta tham dự được hội Pháp Hoa và xuyên vào tâm Phật để chúng ta nhận được Bổn Phật. Ý này tiêu biểu bằng hoa Mạn đà la và hoa Mạn thù sa.

Có hai loại hoa này, chúng ta thấy thông suốt được 18.000 thế giới, mới gặp được Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và Bồ tát Di Lặc. Hai vị Bồ tát này là cốt lõi của đạo Phật. Bồ tát Văn Thù tiêu biểu cho trí tuệ lý giải được tất cả mọi việc và Bồ tát Di Lặc tiêu biểu cho phước đức. Hai Bồ tát này kết hợp lại mới có Pháp Hoa.

Bồ tát Di Lặc nhiều đời chuyên làm phước đức, nên Ngài trở thành người tiêu biểu cho phước đức và lúc nào Ngài cũng cười thể hiện tâm vui và thanh thản. Bồ tát Di Lặc là người làm duyên khởi cho Phật nói kinh Pháp Hoa và được Phật thọ ký thành Phật trong tương lai.

Tìm tương lai thấy Di Lặc ra đời và tìm quá khứ thấy có Văn Thù là kết hợp quá khứ và vị lai trong một niệm tâm tu của chúng ta. Khi tâm chúng ta thanh tịnh rồi, thì thu nhiếp được cả ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Ba đời chư Phật thuyết pháp sai biệt đều từ tâm thanh tịnh như hoa sen và từ trí sáng suốt. Nói cách khác, bước theo dấu chân Phật, chúng ta cần kết hợp tất cả giáo lý của Phật để phát huy trí tuệ của ta, mới thấy đúng và làm đúng, phước đức mới sanh ra. Nếu ta thấy việc cần làm mà không làm thì không có phước đức, còn làm sai thì bị đọa.

Từ phẩm Tựa thứ nhất là hạt Bồ đề thứ nhất tiêu biểu trên pháp y và đi đến phẩm Pháp Sư thứ 10, không có 8 phẩm ở khoảng giữa, vì chúng ta lướt qua các phẩm này để kết tinh thành phẩm Pháp Sư thứ 10 là hạt Bồ đề thứ hai trên pháp y.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.