Hạnh Phúc Mộng Và Thực

Nhất Hạnh

Dẫn nhập: Tu học thế nào để có Tuệ Giác?

PHẦN ĐẦU BÀI PHÁP THOẠI KHAI GIẢNG KHÓA TU MÙA THU 1994

Tu Tập Là Cày Bừa Và Vun Bón Đất Tâm
Thưa đại chúng, hôm nay là ngày mồng 1 tháng 9 năm 1994, chúng ta đang ở xóm Thượng, trong ngày khai giảng khóa tu mùa Thu.

Nếu tới Làng Mai cách đây mười hai năm, quí vị sẽ thấy quang cảnh của Làng không giống bây giờ. Thí dụ Pháp đường Chuyển Hóa là một chuồng bò, phân bò chất lên rất cao, phía trên toàn là rơm và sàn gỗ mục gần hết. Mỗi khi có việc cần vào, ta thường bị những con mạt cắn khắp mình, khi ra phải đi tắm mới hết ngứa. Cỏ dại mọc khắp nơi, Phật đường Trúc Lâm tức là căn phòng đẹp nhất của xóm Thượng cũng là một chuồng bò chứa phân cao tới gần một thước tây. Chúng ta đã để ra rất nhiều tuần lễ mới chở hết phân ra, rồi phải dùng một máy xịt nước rất mạnh để rửa từng viên đá. Quang cảnh của Làng Mai cách đây mười hai năm rất khác với bây giờ. Trong suốt mười hai năm đó, chúng ta đã cày bừa, dọn dẹp, sắp đặt và quang cảnh của Làng Mai ngày nay tuy chưa được như mình mong ước nhưng cũng đã khá hơn trước rất nhiều.

Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa. Ngưòi làm việc có phương pháp, lúc mới đến họ thường chụp hình khung cảnh đất hoang, rồi mới bắt đầu khai khẩn, xây cất. Sau một hai năm xây dựng họ đem hình ra xem để thấy sự khác biệt giữa hai quang cảnh mới và cũ.

TU HỌC LÀ ĐIỀU PHỤC TÂM

Sự tu học của chúng ta cũng như vậy. Trước khi tu thì tâm của ta rất là hoang vu và gai góc. Ta tạo ra rất nhiều đau khổ cho chính ta và cả cho những người chung quanh. Trong Kinh Tăng nhất A Hàm quyển 5, kinh thứ 5 và 6thuộc Hán Tạng, Bụt có nói:

“Này các vị khất sĩ, không có một sự vật nào khi không được điều phục mà có thể đem lại nhiều đau khổ như tâm của chúng ta.

Này các vị khất sĩ, không có vật nào khi đã được điều phục và chế ngự mà lại có thể đem lại nhiều hạnh phúc như tâm của chúng ta”.

Vì vậy tu học có nghĩa là điều phục tâm, làm việc với tâm. Trong văn học Nikaya tức kinh Pali, tưong đương với đoạn kinh trên là Kinh Samyutta Nikaya (1), phẩm thứ nhất, Kinh số 6. Bản dịch như sau:

“Này các vị khất sĩ, ta không thấy một Pháp nào đưa đến bất lợi như là tâm không được điều phục. Tâm không được điều phục, này các vị khất sĩ, đưa tới những bất lợi rất lớn”. Vậy thì ý kinh cũng giống như Kinh Tăng nhất A Hàm. Ta hãy đọc tiếp:

“Ta không thấy một Pháp nào khác, này các vị khất sĩ, có thể đưa đến lợi ích như là tâm được điều phục.

Ta không thấy một Pháp nào khác, này các vị khất sĩ, đưa đến bất lợi lớn như là tâm không được hộ trì.

Ta không thấy một Pháp nào khác, này các vị khất sĩ, có thể đưa đến lợi ích lớn như là tâm được hộ trì.

Ta không thấy một Pháp nào khác, này các vị khất sĩ, đưa đến bất lợi lớn như là tâm không được phòng hộ.

Ta không thấy một Pháp nào khác, này các vị khất sĩ, có thể đưa đến lợi ích lớn như là tâm được phòng hộ”.

Sau đó Kinh được tóm tắt lại bằng câu:

“Takhông thấy một Pháp nào khác, này các vị khất sĩ, có thể đưa đến bất lợi lớn như là tâm không được điều phục, không được hộ trì, không được phòng hộ, không được bảo vệ. Tâm không được điều phục, không được hộ trì, không được phòng hộ, không được bảo vệ, này các vị khất sĩ, sẽ đưa đến những bất lợi lớn”.

bất lợi lớn ở đây có nghĩa là những đau khổ cho chính bản thân và cho những người chung quanh.

“Takhông thấy một Pháp nào khác, này các vị khất sĩ, có thể đưa đến lợi ích lớn như là tâm được điều phục, được hộ trì, được phòng hộ, được bảo vệ. Tâm được điều phục, được hộ trì, được phòng hộ, được bảo vệ, này các vị khất sĩ, sẽ đưa đến những lợi ích lớn”.

Lợi ích lớn ở đây là hạnh phúc cho chính mình và cho những người chung quanh. Khi tu, ta tu với cái tâm của ta, nghĩa là ta điều phục, bảo vệ, và hộ trì cái tâm của ta.

TÂM CŨNG NHƯ ĐẤT, CHỨA ĐẦY HẠT GIỐNG

Trong văn học Phật Giáo, tâm có khi được ví với đất. Tại bất cứ nơi nào ở xóm Thượng, nếu quí vị cày lên một khoảng đất, bừa cho nhỏ rồi tưới nưới, một thời gian sau sẽ thấy rau dền mọc lên. Quí vị hỏi rau dền ở đâu mà mọc ra như vậy? Rau dền đã có hạt giống ngay trong lòng đất ở xóm Thượng. Ngoài hạt giống rau dền, đất xóm Thượng còn chứa rất nhiều loại hạt giống khác.

Ta thường chứa hạt giống trong bồ hoặc trong nhà để chờ ngày gieo và do đó ta nghĩ hạt giống là một cái gì có ở ngoài đất. Kỳ thực, hạt giống luôn luôn nằm trong đất. Nếu ta có hạt giống chứa trong bồ thì hạt giống cũng từ lòng đất mà ra, chứ không phải từ trên không rơi xuống rồi đem cất vào bồ. Cái ý niệm đất là tâm là một ý niệm vô cùng tuyệt diệu, vì vậy cho nên ta có chữ tâm địa. Trong đất tâm, ta có đủ mọi hạt giống: hạt giống của gai góc, của tham giận, của si mê, của kiêu căng, của ganh tị v.v… Nhưng trong tâm ta cũng có các hạt giống của hạnh phúc, của giác ngộ, của giải thoát, của sự tha thứ, của sự thương yêu v.v… Tu học có nghĩa là phân biệt cho được những hạt giống đó để chuyển hóa những hạt giống xấu và tưới tẩm những hạt giống tốt.

Trước khi tu tập, đất tâm của ta rất cứng và với đất đó ta không làm gì được cả. Vì vậy, việc đầu tiên là phải cày đất. Lưỡi cày đất tâm là chánh niệm. Tại Làng Mai chúng ta có 1250 cây mận. Trước khi trồng mận, ta phải cày những khu đồi. Trồng mận ta phải chọn đất. Đất trồng mận phải là đất trên đồi thì mận mới tốt. Trồng ở thung lũng, vào mùa Xuân sương đọng nhiều, hoa mận có thể bị đóng băng giá, những trái mận có thể chết ngay từ lúc còn trong lòng hoa. Ban đầu ta cày sâu khoảng 40cm rồi đặt những cây mận xuống. Năm thứ hai, giữa những hàng mận con ta phải dùng một lưỡi cày nhỏ, rộng khoảng 5cm và dài gần 1m để cày hai bên hàng mận. Lưỡi cày đó đi sâu vào lòng đất, làm vỡ những tảng đất cứng ở dưới để sau này rễ mận có thể chui qua nếu không, những cây mận này sẽ không có tương lai. Sang năm thứ ba, ta cũng cày lại, nhưng lần này không cày theo đưòng cũ mà cày sang một bên, tiếp tục làm vỡ đất dưới sâu để cho rễ mận có đường chui qua. Nếu không cày nhiều lần như vậy, rễ mận chỉ đi qua trên mặt mà không bao giờ hút được nước và chất bổ ở dưới lòng đất sâu. Vì vậy nhìn bề ngoài ta tưởng công phu cày mận chỉ sâu mấy chục phân thôi, nhưng thực ra ta đã dùng lưỡi cày rất dài và đã cày nhiều năm giữa những hàng mận để cho đất ở dưới sẽ được phá vỡ. Khi cày sâu như vậy, lưỡi cày sẽ giật, sẽ cắt đứt và làm lộ lên những rễ cây, những hạt giống kết tụ từ hàng trăm năm trước.

Tu học cũng vậy. Phải biết rằng nếu đất tâm của ta không được điều phục thì đất tâm đó không giúp được gì cho việc tu tập của ta cả. Phải cày đất tâm của ta bằng sự thực tập chánh niệm hàng ngày. Ví dụ nghe chuông là một cách cày ruộng tâm. Làm sao quý vị có thể làm cho tâm mình được phòng hộ, được trở nên tốt đẹp nếu mình không cày sâu xuống mảnh đất tâm của mình? Vì vậy trong đời sống hàng ngày, khi chúng ta nấu cơm, giặt áo, quét nhà, gánh nước, bổ củi là những lúc chúng ta cày miếng đất tâm của chính mình. Ruộng tâm được cày lên để tất cả những gai góc và rễ cây được xắn đứt, trồi lên mặt đất để ta có thể lượm, quăng vào một đống rồi đốt đi.

Sáng nay chúng ta đã học sơ lược về cách thỉnh chuông. Thỉnh chuông là một phương thức cày ruộng tâm. Nếu không thành công khi thỉnh và nghe chuông thì có thể sẽ không thành công trong những pháp môn tu tập khác.

TU HÀNH CŨNG NHƯ LÀM RUỘNG

Nói đến cày ruộng, ta nhớ đến Kinh Samyutta tức là Tương Ưng Bộ, chương 1, kinh thứ 172. Kinh tương đương trong Hán tạng là Kinh Tạp A Hàm. Kinh thứ 98 Tương Ưng Bộghi lại rằng: Một hôm Bụt đi khất thực với các thầy ở miền quê nước Kosala (Câu Tát La, tức là nước của Vua Ba Tư Nặc, nơi có vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc ở thủ đô Xá Vệ). Hôm đó là ngày đầu mùa Xuân, các nhà nông đưa trâu ra cày ruộng. Có một vị Bà la môn tên Bhàradvàja (Ba La Đậu Bà Giá), là một chủ điền rất lớn. Ông đem theo tới 500 lưỡi cày, 500 con trâu và rất nhiều lực điền để cày ruộng. Đến giờ nghỉ trưa, họ mang cơm ra ăn. Giáo đoàn của Bụt đi ngang qua và các thầy dừng lại để khất thực. Ông Bà la môn đứng đậy chỉ trích: “Chúng tôi làm ruộng, chúng tôi có đất, có hạt giống, có cày, có bò, chúng tôi cày ruộng, bừa ruộng, gieo hạt giống, cấy mạ, vun bón rồi chúng tôi mới ăn. Các ông không có đất, không có cày, các ông không tưới, không làm gì hết mà các ông cũng đòi ăn là nghĩa làm sao? Bụt mỉm cười nói: “Thưa ông, có chứ, chúng tôi có đất, có hạt giống, chúng tôi có cày bừa, có trâu bò, chúng tôi có gieo hạt, chăm sóc và chúng tôi ăn”. Ông Bà la môn nói: “Thầy nói vậy làm sao tôi tin được. Đất của Thầy đâu, hạt giống của Thầy đâu, bò của Thầy đâu, cày của Thầy đâu mà Thầy dám nói rằng Thầy là người cày ruộng?” Bụt liền đọc một bài kệ như sau:

Đức tin là hạt giống
Công phu mưa phải thời
Chánh niệm là lưỡi cày
Tinh tấn là sức kéo
Cán cày là trí tuệ
Dây cột là ý căn
Rễ ách nạn nhổ lên
Quả Niết Bàn thu hoạch.

Như vậy có nghĩa tâm ta là đất ruộng, và những hạt giống mà ta gieo trên đó là hạt giống của đức tin, đức tin nơi Pháp môn của Bụt, nơi Giáo Pháp và nơi Tăng đoàn. Hạt giống đó cùng với đất tâm là vốn liếng của người làm ruộng tâm.

Kinh này cho ta thấy rằng tu hành cũng giống như làm ruộng. Khi tu tập, ta biết tâm mình là ruộng đất, chánh pháp là những hạt giống tốt và chánh niệm là lưỡi cày để phá đất. Chúng ta phải vun bón, phải chăm sóc thì mới có sự thu hoạch tình thương tức là có lòng từ bi. Có trí tuệ, có tình thương thì có vững chải và thảnh thơi, hai đặc tính của Niết Bàn. Vì vậy mà Bụt nói “Quả Niết Bàn thu hoạch”.

Theo truyền thống đạo Bụt Đại thừa, ta thường gọi tâm là đất. Tâm của chúng ta có nhiều tác dụng, nhưng thường thường chúng ta chỉ nói tới hai tác dụng chính của tâm. Tác dụng thứ nhất gọi là Tàngvà tác dụng thứ hai gọi là Ý. Tâm có thể được tượng trưng bằng một vòng tròn với một dây cung chia vòng đó làm hai phần. Phần dưới tượng trưng cho tàng thức, phần trên tượng trưng cho ý thức.

Tàng ở đây là đất và đồng thời là những hạt giống. Những hạt giống dưới (tàng) có thể mọc lên thành hoa trái ở phía trên (ý). Nếu người làm ruộng phải làm việc với đất thì người tu phải làm việc với tàng thức. Nếu chỉ làm việc với ý thức thôi thì ta sẽ không thành công, vì ý thức chỉ là người làm ruộng còn tàng thức mới chính là đất. Tất cả những hạt giống đều nằm trong tàng thức và chính tàng thức mới cống hiến được những hoa trái của sự hiểu biết, của sự thương yêu, và của sự giác ngộ. Cho nên nếu ta không tu tập thì đất tâm sẽ đưa lên những quả khổ đau, giận hờn, vô minh, và kỳ thị. Vì vậy ý niệm đất rất là quan trọng vì đất luôn luôn cất giữ những hạt giống. Có đất là có hạt giống.

Nếu đã tụng Kinh Địa Tạng, chắc quí vị còn nhớ một câu trong bài tựa: “Địa ngôn kiên hậu quảng hàm tàng”. Địacó nghĩa là vững chải, là sâu dày, và chứa đựng được rất nhiều; kiênlà chắc chắn; hậulà dầy, là có chiều sâu, là chắc chắn. Tính chất thứ ba của đất là quảng hàng tàng. Quảnglà rộng rãi, tànglà chứa đựng, quảng hàm tànglà có khả năng bao gồm và chứa đựng rất rộng rãi. Vì vậy chữ tàng thứcrất có ý nghĩa: tàng thức là một cái thức chứa đủ tất cả các hạt giống, nó có tính cách vững chải và sâu dày. Hạt giống ở tàng thức có đủ loại: hạt giống xấu, hạt giống tốt, hạt giống của ma và hạt giống của Bụt. hạt giống của khổ đau có mặt mà hạt giống của hạnh phúc cũng có mặt. Vì vậy tàng thức có khi được gọi là nhất thiết chủng thức, tức là cái tâm thức có đầy đủ tất cả các loại hạt giống.

Ở Làng Mai, đứng trên đồi nhìn xuống, ta thấy những ruộng nho, những đồi mận rất đẹp. Ta nên biết rằng những vùng đất đó đã được cày bừa rất kỹ lưỡng. Tại Xóm Hạ, đất ở các vường trồng rau trong nhà mặt trời đã được chuẩn bị thật kỹ cho nên ta mới có các loại rau mọc lên rất mạnh và tốt tươi. Sư cô Bảo Nghiêm và sư cô Chân Vị là hai người đã để ra rất nhiều thì giờ và công phu để chăm sóc những vườn rau ở Xóm Hạ. Các sư cô biết rất rõ nếu không xới, không nhổ cỏ, không làm cho đất mềm, đất nhuyễn thì không thể nào trồng rau được. Tâm của ta cũng vậy, nếu tâm của ta không được điều phục, không được uốn nắn, không được bảo hộ thì tâm của ta sẽ gây ra đau khổ và không thể nào tạo được hạnh phúc cho mình và cho người.

BA TÂM SỞ MỚI TRONG ĐẠO BỤT NAM TÔNG

Trong khóa tu mùa Xuân vừa qua chúng ta đã học về 51 Tâm sở một cách khá kỹ lưỡng. Pháp tướng Duy Thức học và 51 Tâm sở đã trở thành quen thuộc với chúng ta. Nhưng khi đi vào lảnh vực của Nam tông, ta khám phá ra những tâm sở mới không có mặt trong số 51 tâm sở thường được nhắc đến. Hôm nay chúng ta sẽ kể tên ba tâm sở mà chúng ta chưa được học trong số những tâm sở thiện của Đạo Bụt Bắc truyền.

Trước hết là Tâm sở nhu nhuyễn, tiếng Phạn là Cittamudutà. Nhu nhuyễn là mềm. Tâm nhu nhuyễn dễ làm việc lắm, còn nếu tâm cứng ngắc thì rất khó làm việc. Đất cứng mà không cày thì không trồng trọt gì được. Hãy lấy một cành cây khô mà ta lượm ở Pháp Thân Tạng làm ví dụ. Khi ta uốn cành cây khô này thì nó gãy. Trong khi đó với một cành tre non hay một dây mây, ta có thể uốn nắm một cách rất dễ dàng. Sự khác nhau giữa cành cây khô và sợi dây mây là ở chỗ một bên có sự nhu nhuyễn, một bên không có sự nhu nhuyễn. Tâm của ta cũng vậy, có khi nó cứng ngắc, cố chấp đủ thứ, dù có người muốn giúp, cố nói cho ta nghe một điều gì đó nhưng tâm ta nó vẫn trơ trơ, vẫn không chuyển lay. Tâm đó gọi là tâm không nhu nhuyễn.

Một tâm sở khác là Tâm thích ứng(Cittakarmannata). Ngày xưa dịch là Tâm thích nghiệp, vì trong đó có chữ karma, nhưng dịch là tâm thích ứng thì dễ hiểu hơn. Tâm thích ứng là tâm uyển chuyển, tâm có thể chấp nhận được những hoàn cảnh mà ta không chờ đợi trước. Ví dụ ta có một ý niệm về Làng Mai, nghĩ rằng Làng Mai là thế này hoặc thế kia, nhưng khi về tới Làng thì thấy Làng Mai không giống như những điều mà ta đã vẽ ra, đã suy nghĩ đến, vì không bỏ được cái ý niệm trước của ta về Làng Mai nên ta không thích ứng được. Kết quả là ta cảm thấy thời gian ở Làng Mai không hạnh phúc vì những điều ta mong đợi đã không xảy ra. Tâm đó gọi là tâm không thích ứng. Trong khi đó, tâm thích ứng là tâm dễ hội nhập vói hoàn cảnh trong hiện tại. Hội nhập ở đây không có nghĩa là ta phải bỏ cái của ta và hoàn toàn đi theo cái của người khác. Hội nhập ở đây là ta hòa chung với hoàn cảnh và tìm cách để đem những điểm tích cực của mình ra cống hiến và phối hợp với cái tích cực của địa phương, khiến cho hai cái tốt được pối hợp với nhau. Mình không đánh mất cái tốt của mình mà địa phương cũng không đánh mất cái đẹp của địa phương. Đó gọi là thích ứng. Ví dụ các sư chị ở Việt Nam có cái đẹp, cái hay của truyền thống. Sang Làng Mai các sư chị thấy các sư em thỉnh thoảng thiếu những cái hay đó của truyền thống, nhưng đồng thời các sư chị lại thấy các em có những cái hay của Tây Phương, của “những cái không truyền thống”. Nếu các sư chị thích ứng thì các sư chị chấp nhận hoàn cảnh mới rồi từ từ trao truyền những cái hay, cái đẹp truyền thống cho các sư em, đồng thời học những cái hay cái đẹp mà các em có, tại vì mỗi nền văn hóa đều có những nét đặc thù khác nhau. Nếu các sư chị bó tay và nghĩ là mình phải về lại Việt Nam, còn nếu ở lại thì mình sẽ không làm được gì hết, đó là vì các sư chị không có tâm thích ứng.

Một tâm sở khác gọi là Tâm hữu năng(Cittapãgunnatà), có khi dịch là Tâm tinh luyện hay Tâm xảo diệu. Tâm xảo diệu là tâm có khả năng làm được những việc mà những tâm khác không thể làm được. Người có tâm đó thì rất khéo léo, khéo léo như hai bàn tạy của một cô Y tá khi chích thuốc hay băng bó. Phải tập luyện lắm mới có được hai bàn tay của cô y tá. Ai muốn biết hai bàn tay của cô y tá như thế nào thì hỏi sư chị Bảo Nghiêm hay sư chị Minh Tánh. Tâm của mình cũng vậy, khi tâm của mình xảo diệu thì mình có thể đối cơ, đối cảnh và độ đời được một cách rất dễ dàng. Mình có thể sống với các sư em, sư anh, sư chị một cách rất hạnh phúc, còn nếu không có tâm xảo diệu, nếu cứng ngắc và không biết thích ứng thì mình chỉ chịu chết thôi.

Tất cả những tâm sở và tâm hành này đều có hạt giống ở trong tàng thức. Nếu thực tập chuyện cày ruộng, thực tập chuyện tu học hàng ngày thì hạt giống của tâm nhu nhuyễn, của tâm thích ứng và của tâm xảo diệu sẽ tưới tẩm và ta sẽ trở thành một người sống có hạnh phúc trong bất cứ hoàn cảnh nào. Vì vậy mỗi khi giận, buồn, hoặc thất vọng ê chề, ta thối thất muốn bỏ đi, muốn trốn tránh xã hội loài người thì ta phải biết rằng cái tâm của ta đang còn là một miếng đất hoang, chưa được cày bừa, chưa được tu tập. Bụt dạy rằng tâm không tu tập sẽ đem lại rất nhiều khổ đau cho mình và cho người, tâm được tu tập sẽ đem lại hạnh phúc cho mình và cho người. Vì vậy đối với người tu hành, công việc hàng ngày là cày cấy mảnh đất tâm của mình. Khi ngồi thiền mình cày ruộng tâm của mình. Khi đi thiền hành mình cũng cày ruộng tâm của mình. Khi nghe chuông, khi thở, khi ăn cơm đều là những lúc mình cày ruộng tâm của mình cả. Cũng vậy, khi lượm mận, làm mứt, nấu cơm, đều là những lúc ta cày miếng đất của ta. Đừng nghĩ rằng tu hành chỉ xảy ra trong khi mình ngồi thiền hay nghe thuyết Pháp mà thôi. Cái tâm của mình phải luôn luôn được tu tập. Theo danh từ Hán Việt, tu là làm cho đẹp, làm cho tốt, làm cho nó có thể sử dụng được như trong danh từ tu bổ. Tiếng Phạn, Bhavana (tu) có nghĩa là cày bừa, trồng trọt. Tiếng Pháp là culture, tiếng Anh là cultivation. Ví dụ như tu Từ Bi có thể dịch là The cultivation of Compassion and Loving Kindness. Ta phải cày bừa đất, phải gieo hạt giống, phải tưới tẩm, đó là tu tập. Bhavana là như vậy. Cố nhiên khi muốn trồng thì ta phải có đất mà đất thì đã có rồi. Nhưng có thể đất của ta còn hoang cho nên ta phải dùng cày, dùng bừa, phải tưới tẩm, phải vun bón, phải gieo hạt giống, và phải trừ diệt cỏ. Tất cả những công việc đó đều thuộc vào phạm vi tu tập. Vì những phiền não hàng ngày quấy động và vì ta có hạt giống từ dưới chiều sâu của tàng thức, nên nếu không tu tập thì chúng sẽ lăng xăng, trỗi dậy và làm cho quang cảnh của ý thức tiêu điều. Ý thức là phòng khách của chúng ta, còn tàng thức là kho chứa. Khi kho chứa đầy khổ đau thì thỉnh thoảng khổ đau đẩy cửa vào ngồi chểm chệ trong phòng khách của ta. Nếu không tu tập thì ta không có khả năng đuổi chúng đi, không có khả năng chuyển hóa chúng được. Ý thức là người làm vườn; người làm vườn phải biết điều phục khu vườn của mình, phải biết cày bừa, phải biết nhổ cỏ, phải biết chọn hạt giống, phải biết vun bón, phải biết tưới tẩm thì mới có những hoa trái của hạnh phúc, của thương yêu và của giác ngộ.

(1)Trong Văn hệ Pali, Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) viết tắt là S.. Vì vậy khi thấy chữ S.. ta biết đó là Tương Ưng Bộ; khi thấy chữ M., ta biết đó là Trung Bộ (Majjhima Nikaya); thấy chữ A. là Tăng Nhất (Anguttara Nikaya); và thấy chữ D. là Trường Bộ (Digha Nikaya).

CHƯƠNG 1

TÊN VÀ NGUỒN GỐC KINH TAM DI ĐỀ

1.1 Nguồn Gốc Tên Kinh

Kinh Tam Di Đề hiện giờ ta có ba bản, một bản tiếng Pali và hai bản chữ Hán (Tạp A Hàm và Biệt Dịch Ta A Hàm). Kinh Tam Di Đề mà ta đang đọc được dịch từ Hán Tạng, đó là kinh số 1078 trong Tạp A Hàm.

Tam Di Đề tiếng Phạn là Samiddhi, Samiddhi là tên của một thầy còn trẻ, khoảng 22, 23 tuổi. Thầy Samiddhi được sinh ra trong một gia đình trâm anh thế phiệt, sống tại thủ đô Vương Xá (Ràjagaha).

Ngày xưa trước khi thành đạo, Bụt có hứa với vua Tần Bà Xa La (Bimbisara) là sau khi thành đạo thế nào Ngài cũng về để giúp vua. Lúc đó Bụt còn là một vị sa môn đang đi tìm đạo và hai người đã gặp nhau trên một khu đồi ở gần Thành Vương Xá. Vua Tần Ba Xa La rất cảm phục Bụt và đã khẩn khoản mời Ngài về làm Quốc Sư, nhưng Bụt đã nói: “Bần đạo xin cảm tạ tấm lòng chiếu cố của Đại Vương, nhưng quả thật giờ đây bần đạo chỉ có một ước vọng mà thôi, đó là ước vọng tìm cho ra chánh đạo để cứu giúp muôn loài. Cuộc sống rất vô thường, cái khổ của sinh, lão, bệnh, tử luôn luôn rình rập ta, những ngọn lửa phiền não từ nội tâm như tham vọng, giận dữ, oán thù, si mê, ganh ghét và kiêu mạn đang nung nấu tâm hồn ta, và ta chỉ có thể đạt tới an lạc thật sự nếu ta tìm được con đường tu tập. Chỉ khi nào Đạo Lớn được tìm ra thì mọi loài mới có con đường giải thoát. Nếu Bệ Hạ có lòng yêu mến bần đạo, xin Bệ Hạ để cho bần đạo được theo đuổi con đường mà kẻ tu hành này đã hướng đến từ lâu. Bần đạo xin hứa là khi nào tìm ra được đạo, bần đạo sẽ trở về chia xẻ với Đại Vương”.

Vì vậy sau khi thành đạo, lập được tăng thân ở Vườn Nai, trở về thăm cây bồ đề, điều phục ba anh em ông Ca Diếp thờ Thần Lửa, và thu nhận gần một ngàn môn đồ của ba vị này làm đệ tử xuất gia, Bụt đã đưa cả giáo đoàn đó về thủ đô Vương Xá, cư trú tại Rừng Kè mới trồng ở ngoại ô, cách thủ đô hai dặm về phía Nam. Buổi sáng giáo đoàn được phép vào thành để khất thực. Các vị khất sĩ tổ chức thành từng chúng hai mươi lăm người, bước từng bước khoan thai và có ý thức, tay ôm bình bát, mắt nhìn thẳng về phía trước, dáng điệu rất uy nghi. Dân chúng trong thành rất ngạc nhiên khi thấy có một giáo đòan khất sĩ mới, đông đảo nhưng rất trang nghiêm. Bụt cũng đã đi khất thực chung với các thầy. Cgỉ trong vòng nửa tháng, phần lớn dân chúng thủ đô đã biết tới sự có mặt của giáo đoàn khất sĩ do Bụt lãnh đạo. Tiếng đồn tới tai vua và vua biết là Người xưa đã trở về, Bụt chưa kịp đi thăm vua thì một buổi chiều, vua cùng hoàng hậu và thái tử đã ngồi xe tứ mã tìm về Rừng Kè để thăm Bụt. Tháp tùng vua có nhiều nhân sĩ, trí thức và lãnh đạo cao cấp trong giới Bà la môn, trong đó có thân phụ của Samiddhi. Lúc đó Samiddhi là một người trẻ, cũng được đi theo phái đoàn. Cố nhiên chàng không phải là một thanh niên tầm thường. Nếu không có tài, không có ưu thế trong xã hội thì đâu dễ gì chàng được tham dự vào phái đoàn để đi thăm Bụt.

SƯ CHÚ SAMIDDHI VÀ MA VƯƠNG

Ngay lần đầu được gặp Bụt và chứng kiến cuộc nói chuyện giữa Bụt và vua Tần Bà Xa La, Samiddhi đã có ý định muốn xuất gia, và người trai trẻ này là một trong những thanh niên đầu tiên ở thành Vương Xá được chấp nhận vào giáo đoàn của Bụt và thầy sống rất an lạc. Sau vài ba năm tu học, trong một đêm thiền tọa thầy Samiddhi quán chiếu thấy mình thật may mắn đã được chấp nhận vào trong giáo đoàn mầu nhiệm này và thầy cảm thấy rất hạnh phúc. Bỗng nhiên thầy nghe một tiếng nổ kinh hoàng giống như là trái đất vỡ tung, làm thầy rất hoảng sợ.

Ngày hôm sau tìm tới Bụt thầy kể lại câu chuyện đã xảy ra: “Bạch Đức Thế Tôn, con đang thiền tọa rất an lạc, đang ý thức được sự may mắn của con vì được xuất gia từ lúc còn trẻ tuổi, thì tự nhiên có một tiếng nổ giống như quả đất này đang vỡ tung. Con đã rất sợ nên đến với Đức Thế Tôn để hỏi Ngài là con phải đối trị với cái sợ ở trong con như thế nào?” Bụt nói: “Này Samiddhi Đó là ma phiền não trong tâm quấy nhiễu con. Con chỉ cần biết đó là ma phiền não thôi thì tự nhiên con sẽ bình an, hết sợ. Con đừng đi trốn ở một nơi khác, cứ ở ngay chỗ đó để tu học”.

Vài ngày sau khi trở về trung tâm đó, cũng vào nửa đêm, trong khi thiền tọa, thầy Samiddhi lại nghe một tiếng nổ kinh hoàng giống như kỳ trước. Thầy mỉm cười, thở vào, thở ra, và nói: “Đây là ma phiền não, ta nhận biết cái hạt giống sợ hãi ở trong ta rồi”. Và mầu nhiệm thay tất cả những sợ hãi đó đều biến mất và tiếng nổ kia không bao giờ còn được nghe nữa. Từ đó trở đi thầy Samiddhi sống rất an lạc và tu học rất tinh chuyên trong giáo đoàn mầu nhiệm này.

Câu chuyện trên đây có nghĩa là trong thời gian tu học, có thể sự nghi ngờ và sợ hãi xảy ra trong tâm ta. Đôi khi sự nghi ngờ hoặc sợ hãi đó rất lớn, giống như một tiếng nổ kinh hoàng, giống như trái đất sắp nổ tung. Nhưng ta không nên lo lắng, tại vì tất cả những sợ hãi và nghi ngờ đó đã từ tâm ta phát sinh. Ta chỉ cần nhận diện sự có mặt của chúng thì chúng sẽ không làm gì được ta. Trong khi tu hành, nếu ta sinh ra tâm niệm chán nản, thì tâm niệm chán nản đó cũng là ma phiền não. Đó là một hạt giống trong tâm địa đã nảy mầm. Ta không cần phải chạy trốn, ta chỉ cần mỉm cười, thở vào, thở ra, và nói rằng: Hạt giống của chán nản ơi! Người vừa xuất hiện, ta biết sự có mặt của ngươi, thì hạt giống đó không làm gì được ta.

Một lần khác, thầy Samiddhi đã gặp và đàm luận với một vị ngoại đạo khá nổi tiếng, vị này là một nhà triết học. Lúc đó Đức Thế Tôn đã được vua Tần Bà Xa La (Bimbisara) cúng dường cho một khu rừng tre rất đẹp ở cạnh thành Vương Xá, gọi là Tu Viện Trúc Lâm. Trong rừng có rất nhiều con sóc hiền lành. Hôm ấy thầy Samiddhi đang ngồi trong một cái thất ở rừng tre thì có một vị du sĩ ngoại đạo tên là Totali Budtha đến gặp thầy và hỏi về giáo lý đạo Bụt. Ông ta hỏi về thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp và về cảm thọ. thầy Samiddhi đã giảng, đã giải thích cho vị du sĩ đó, Kiến thức của thầy lúc bấy giờ chưa vững, cho nên khi biết chuyện, Bụt có hỏi lại Samiddhi. Samiddhi đã nói vài điều không đúng lắm với chánh pháp nên bị Bụt quở. Hôm đó Samiddhi hơi có nội kết, tự giận mình mới tu nên còn non yếu. Nhưng nội kết đó đã rất tốt cho quá trình tu học của thầy.

Đây là những điều quí vị nên biết trước khi đọc Kinh Tam Di Đề, nếu không mình sẽ không hiểu một vài chi tiết ở trong kinh. Câu chuyện thầy Samiddhi bị Bụt rầy được ghi lại trong Kinh Đại Nghiệp Phân Biệt, tức là Kinh 136 ở trong Trung bộ Kinh.

1.2 Trưòng Hợp Bụt Nói Kinh

Đây là những điều tôi được nghe vào một thời mà Bụt đang cư trú ở Tu viện Trúc Lâm Ca Lan Đà, tại kinh thành Vương Xá. Một sớm mai nọ có vị khất sĩ ra sông cởi y áo để trên bờ, rồi xuống nước tắm gội. Tắm xong vị ấy ấy lên bờ đợi cho khô mình mẩy rồi mặc áo vào. Bấy giờ có một vị thiên nữ xuất hiện, hào quang từ thân hình phát ra sáng chói, soi rõ cả bờ sông. Thiên nữ nói với vị khất sĩ:

“Thầy là một người mới xuất gia, tóc còn xanh, tuổi còn trẻ, giờ này đáng lý phải xông ướp hương thơm, trang điểm châu báu, đeo tràng hoa thơm mà hưởng thọ năm thứ vui thú ở đời. Trong khi đó thì thầy lại bỏ những người thương, quay lưng lại với cuộc đời thế tục, chịu đựng sự biệt ly, cạo bỏ râu tóc, khoác áo Cà sa, tin tưởng vào con đường xuất gia học đạo. Tại sao lại bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời như thế?”.

Đó là đoạn đầu của kinh theo bản văn Hán tạng. Trong bản văn tiếng Pali cũng nói giống như vậy và có ghi rõ tên vị khất sĩ là Tam Di Đề. Trong bản văn Hán tạng tuy không nêu rõ tên vị khất sĩ trẻ, nhưng ta biết chắc rằng vị khất sĩ đương sự mang tên Samiddhi.

Chúng ta cũng có một bản dịch khác trong Hán tạng là Biệt Dịch Tạp A Hàm Kinh. Trong bản kinh này có ghi là khi thầy Samiddhi cởi áo đi xuống nước tắm thì trời còn mờ tối, chưa sáng hẳn. Khi bước lên thì thầy để lộ cái thân hình của một người con trai trẻ tuổi, và thầy đứng như vậy đợi cho khô ráo chứ không mặc vào một cái áo để che thân như đã được mô tả trong Tạp A Hàm Kinh số 1078 hay là trong kinh văn Pali. Biệt Dịch Tạp A Hàm nói “lộ hình xuất thủy”, tức là đi ra khỏi nước để lộ thân hình và đứng đợi cho khô thôi, không nói có mặc áo vào. Tôi nghĩ rằng bản kinh nói “lộ hình xuất thủy” có tính cách gần với kinh nguyên thủy hơn. Sau này có lẽ người ta thấy cái hình ảnh đó không được thuần phong mỹ tục cho lắm, nên bản Tạp A Hàm cũng như bản Pali đều cho thầy mặc vô một cái áo để đứng đợi cho khô mình mẩy.

Ở gần núi Linh Thứu có nhiều nước suối nóng, các thầy ưa tới đó tắm. Có nhiều thầy trẻ, tắm hơi nhiều nên bị Bụt quở. Vì vậy sau đó đã phải qui định lại là nên tắm bao nhiêu thì đủ, vì tắm ở suối nước nóng là một sụ thích thú của rất nhiều thầy. Trong khu vực những suối nước nóng có một tu viện. Nói là tu viện nhưng kỳ thực không có những tòa nhà lớn mà chỉ có những thảo am, những tịnh xá nho nhỏ cất lên rải rác đó đây cho các thầy lớn tuổi thôi, còn các thầy nhỏ thì sống ở dưới các gốc cây. Những dòng suối nước nóng đó chảy vào một con sông tên là Tapoda, và tu viện ở đó gọi là tu viện Tapodarama. Nước sông không còn nóng như ở suối, và thầy Samiddhi đã tắm ở dòng sông này.

Chúng ta nên biết rằng ngày xưa các vị Thiên giả hiện xuống sống chung với người thường rất thường. Hiện nay ta chỉ thấy người thường thôi chứ không thấy Chư Thiên xuống nghe Pháp. Thật ra chúng ta phải nghĩ rằng giữa Thiên với Nhân khoảng cách cũng không xa bao nhiêu. Có những người sống nhẹ nhàng như tiên và như vậy thì dưới trần thế cũng có những vị Thiên giả chứ không phải là không.

Trong đoạn này, ta nhận thấy vị Thiên giả xuất hiện khi thầy Samiddhi mới tắm xong và chưa mặc áo, Có lẽ nhìn thấy thầy là một người con trai mới lớn, thân hình tráng kiện là lại xuất gia, cho nên cô đã hỏi: “Thầy tuổi còn trẻ, tóc còn xanh, giờ này đáng lý phải xông ướp hương thơm, trang điểm châu báu, đeo tràng hoa mà hưởng thọ năm thứ vui ở đời. Tại sao thầy lại bỏ những người thương, quay lưng lại với cuộc đời thế tục, chịu đựng sự biệt ly, cạo bỏ râu tóc, khoác áo Cà sa, tin tưởng vào con đường xuất gia học đạo. Tại sao thầy lại bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lợi phi thời như thế?” Chuyện này xảy ra trong quá khứ nhưng cũng đang xảy ta trong hiện tại. Người ta thường hay nói: mình còn trẻ mà đi tu làm gì? Mình phải xông pha trong cuộc đời hưởng thọ năm thứ dục lạc trước, rồi sau đó mình tu cũng không muộn. Truyền thống Đạo Bà la môn chủ trương như vậy. Nhưng truyền thống của Đạo Bụt là một truyền thống mới, khác với đạo Bà la môn, vì vậy mà thầy Samiddhi đã trả lời câu hỏi của vị Thiên nữ:

“Tôi đâu có bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời? Chính tôi đã bỏ cái lạc thú phi thời để tìm tới cái lạc thú chân thật trong hiện tại đó chứ!”

Phi thời nghĩ là không đúng lúc. Theo vị Thiên nữ thì năm thứ dục lạc (tài, sắc, danh, thực, thụy) là lạc thú hiện tại, còn lạc thú mà người xuất gia đi tìm, tức là giải thoát và Niết Bàn, là lạc thú phi thời. Ai lại bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời như vậy? Đó là lời nói của vị Thiên nữ. Thầy Samiddhi đã trả lời rất hay: “Tôi đâu có bỏ cái lạc thú hiện tại để đi tìm cái lạc thú phi thời? Chính tôi đã bỏ cái lạc thú phi thời để tìm tới cái lạc thú chân thật trong hiện tại đó chứ!” Câu trả lời này rất đúng chánh pháp. Nếu không học nhiều kinh khác nói về Bụt, về Pháp và về Tăng thì chúng ta sẽ không hiểu được câu này.

Vị Thiên nữ hỏi:

“Thế nào là bỏ cái lạc thú phi thời để tìm cái lạc thú chân thật trong hiện tại?”

Vị khất sĩ đáp:

“Đức Thế Tôn có dạy: trong cái vui phi thời của ái dục, vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều. Cái lợi rất bé mà cái tai họa rất lớn. Tôi giờ này đang an trú trong hiện pháp, lìa bỏ được những ngọn lửa phiền não đốt cháy. Hiện pháp này vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, tự mình thông đạt, tự mình có thể giác tri. Này Thiên nữ, đó gọi là bỏ cái lạc thú phi thời để đạt tới cái lạc thú chân thực trong hiện tại”.

Đoạn kinh văn này rất quan trọng. Ta phải nghiên cứu mới hiểu sâu được.

Vị Thiên nữ lại hỏi vị khất sĩ:

“Tại sao Đức Thế Tôn lại nói trong cái vui phi thời của ái dục vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều, cái lợi rất bé mà tai họa rất lớn? Tại sao Đức Thế Tôn lại nói an trú trong hiện pháp là lìa bỏ được những ngọn lửa phiền não đốt cháy, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, tự mình thông đạt, tự mình có thể giác tri?”

Vị khất sĩ trả lời:

“Tôi mới xuất gia được có mấy năm, không đủ sức giảng bày rộng rãi những giáo pháp và luật nghi mà Đức Như Lai tuyên thuyết. Hiện Đức Thế Tôn đang cư ngụ gần đây, nơi rừng tre Ca Lan Đà, Thiên nữ có thể tới với Người để trình bày những nghi vấn của Thiên nữ, Đức Như Lai sẽ dạy cho Thiên nữ chánh pháp để tùy nghi thọ trì”.

Câu nói đó của thầy Samiddhi chứng tỏ thầy đã cẩn thận trong khi trả lời. Thầy không dám giảng rộng ra và câu mà thầy vừa nói trên là một câu thầy đã thuộc lòng, nó nằm trong công thức về phép niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Trước đây thầy Samiddhi đã một lần giảng giải rộng, nhưng vì giảng giải chưa được đúng nên thầy đã bị Đức Thế Tôn quở, thành ra bây giờ thầy cẩn thận hơn.

Hồi đó Bụt ở tại tu viện Trúc Lâm. Tu viện này ở miền Nam thủ đô Vương Xá, cách thủ đô chừng vài cây số. Trong tu viện Trúc Lâm có một cái hồ lớn, gọi là Hồ Ca Lan Đà (Kalandala). Ngày xưa tu viện có rất nhiều loại tre quí do Vua tần Bà Xa La đem từ các nơi về. Trong vườn tre có rất nhiều con sóc hiền lành. Khi đến thăm Bụt ở rừng Kè, Vua Tần Bà Xa La đã thỉnh Bụt và giáo đoàn về cung thọ trai. Mấy tuần lễ sau, vào ngày trăng tròn, buổi sáng Bụt khoác áo Cà sa, mang bình bát cùng với giáo đoàn 1250 vị khất sĩ đi vào thành Vương Xá để đáp lại lời mời của Quốc Vương Tần Bà Xa La. Trong dịp thiết trai tăng cúng dường này, Vua Tần Bà Xa La đã hiến cúng cho Bụt và giáo đoàn khu vưòn tre đó. Vườn tre này trở thành tu viện đầu tiên của giáo đoàn Đạo Bụt. Về sau giáo đoàn lại có thêm tu viện Nalanda ở tám cây số phía bắc thủ đô.

Ngày xưa Tu viện Nalanda là một tu viện rất phồn thịnh, quê hương của thầy Xá Lợi Phất. Tu viện này có hàng ngàn sinh viên xuất gia tới học. Thầy Huyền Trang cũng có qua học ở đây. Bây giờ tu viện đã tan nát rồi. Sau này, một học giả người Pháp nói rằng sở dĩ ở Ấn Độ đạo Bụt bị tiêu mòn không còn dấu vết nữa là tại Bụt đã nhận đất cúng dường! Từ một người khất sĩ không cửa, không nhà, Bụt đã trở thành một địa chủ, vì vậy mà sau này đạo Bụt đã gặp khó khăn. Theo nhà học giả này thì nếu ngày xưa Bụt đừng nhận đất, đừng trở thành địa chủ thì các giáo phái khác có muốn đánh cũng không đánh được, vì có nơi nào mà đánh đâu? Ví như giáo đoàn lõa thể của giáo chủ Mahavira đạo Jain, họ vẫn trường tồn từ thời của Bụt cho đến bây giờ.

Đọc những lời nhận xét này của nhà học giả Pháp, tôi chỉ mỉm cười thôi. Theo tôi thì nguyên so suy đồi của đạo Bụt là vì vào thế kỷ thứ VII và thứ VIII, giới Phật tử ưa tranh luận quá nhiều, lý thuyết quá nhiều, mà không chú tâm mấy đến sự thực tập hành trì. Quan trọng hơn nữa là trong đời sống hàng ngày lúc đó, đạo Bụt đã không đặt nền tảng và cơ sở thực tập của mình trong quảng đại quần chúng mà chỉ lo tiếp xúc nhiều với giới quyền quí. Đó mới là những nguyên do căn bản đã đưa đến sự suy đồi của đạo Bụt tại Ấn Độ.

Trở lại Kinh Tam Di Đề, khi nghe thầy Samiddhi mời đi gặp Bụt thì vị Thiên nữ nói:

“Thưa khất sĩ, Đức Như Lai đang được các vị Thiên giả có nhiều uy lực túc trực bao quanh, tôi không dễ gì có cơ hội để tới gần Người mà hỏi Đạo. Nếu thầy có thể đến trực tiếp gặp Đức Thế Tôn để thỉnh vấn trước giùm tôi thì tôi sẽ xin đi theo thầy”.

Vị khất sĩ nói:

“Tôi sẽ đi giúp Thiên nữ”.

Vị Thiên nữ nói:

“ Thưa Tôn giả, vâng, tôi sẽ đi theo Tôn giả”.

Chi tiết này cho ta thấy rằng ngày xưa được gặp Bụt cũng hơi khó. Lý do là vì chung quang Bụt luôn luôn có những vị có y lực lớn, tuy vậy các vị khất sĩ và nữ khất sĩ thì tới với Bụt rất dễ. Thầy Samiddhi tuy còn nhỏ nhưng cũng được phép tới gần Bụt, dễ dàng hơn là những vị Thiên giả. Chúng ta có thể nghĩ rằng, một vị Thiên giả có hào quang, có quyền phép mà tại sao không tới gần Bụt được, trong khi đó một vị Tỳ kheo trẻ như thầy Samiddhi mà muốn tới với Bụt lúc nào cũng được? Chi tiết đó rất hay. Điều này cũng đúng trong hoàn cảnh hiện giờ của chúng ta. Các Sư Cô, Sư Chú tới với Thầy rất dễ, trong khi đó thì những vị có địa vị và danh lợi tới với Thầy rất khó. Điều đó chứng tỏ rằng khi ta đã xuất gia rồi, đã hoàn toàn đem cuộc đời mình đi vào trong Chánh Pháp, thì ta đã trở thành một loại đất tốt, một loại ruộng phước (phước điền) tốt, và vì vậy ta được Bụt để ý và chăm sóc nhiều hơn. Một người đã bỏ hết gia sản, công danh, sự nghiệp để đi xuất gia, thì tự nhiên được Bụt coi như là đối tượng của sự giáo hóa. Vì vậy cho nên dầu họ không phải là các bậc Thiên giả có hào quang sáng, có uy tín nhiều, có địa vị lớn trong xã hội, nhưng họ có thể tới với Bụt bất cứ lúc nào. Cũng vì lý do đó mà vị Thiên giả mới phải nhờ thầy Samiddhi dẫn đi diện kiến với Bụt.

Lúc ấy vị khất sĩ kia đi đến nơi Bụt ở, cúi đầu làm lễ dưới chân Người, lui ra đứng một bên và đem câu chuyện đã nói với vị Thiên nữ thuật lên cho Bụt nghe. Rồi thầy tiếp:

“Bạch Đức Thế Tôn, nếu vị Thiên nữ kia có tâm thành khẩn thì giờ này vị ấy đã có mặt ở đây rồi. Nếu không thì có lẽ vị ấy đã không tới”.

“Thưa Tôn giả, tôi đang có mặt đây, tôi đang có mặt đây”. Và vị Thiên nữ tới gần.

Đức Thế Tôn liền nói cho Thiên nữ nghe bài kệ sau đây:

Chúng sanh theo dục tưởng,
Trú trong dục tưởng ấy,
Không biết dục là gì,
Nên đi vào nẻo chết.

Rồi Bụt hỏi vị Thiên nữ:

– “Con hiểu bài kệ không? Nếu chưa hiểu thì cứ nói”.

– “Con thật tình chưa hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con thật tình chưa hiểu, bạch Đức Thiện Thệ”.

Lúc bấy giờ Bụt lại đọc cho vị Thiên nữ nghe một bài kệ khác:

Biết bản chất của dục,
Sẽ không sinh dục tâm,
Dục không, dục tưởng không,
Không ai xúi được mình.

Rồi Bụt hỏi vị Thiên nữ:

– “Còn bài kệ này con có hiểu không? Nếu không hiểu thì con cứ nói”.

Vị Thiên nữ bạch Bụt:

– “Con cũng chưa hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con cũng chưa hiểu, bạch Đức Thiện Thệ”.

Bụt lại đọc cho vị Thiên nữ một bài kệ khác:

Mặc cảm hơn, thua, bằng,
Tạo thành mọi tranh luận,
Ba mặc cảm dứt rồi,
Tâm không còn khuynh động.

Đọc xong Bụt lại hỏi vị Thiên nữ:

– “Bây giờ con đã hiểu bài kệ ấy chưa? Nếu chưa hiểu thì con cứ nói”.

Vị Thiên nữ bạch Bụt:

– “Con vẫn chưa hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con vẫn chưa hiểu, bạch Đức Thiện Thệ”.

Bụt lại đọc cho vị Thiên nữ một bài kệ khác nữa:

Cắt ái và danh sắc,
Trừ mạn hết buộc ràng,
Chấm dứt mọi sân hận,
Nội kết và hy cầu,
Là giải thoát mọi cõi,
Đời này và đời sau.

Rồi Bụt hỏi vị Thiên nữ:

– “Lần này con có hiểu được ý nghĩa của bài kệ không? Nếu không thì con vẫn có thể hỏi thêm”.

Thiên nữ bạch Bụt:

– “Con đã hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con đã hiểu, bạch Đức Thiện Thệ”.

Nghe Bụt nói kinh xong vị Thiên nữ vui vẻ mừng vâng theo, biến đi và không ai còn trông thấy tăm dạng cô đâu nữa.

Đó là trường hợp mà Bụt đã nói Kinh Samiddhi. Kinh này trích từ Bộ Tạp A Hàm. Khi học kinh này chúng ta sẽ xét luôn văn bản bằng tiếng Pali và văn bản bằng chữ Hán trong bộ Biệt Dịch Tạp A Hàm. Có một vài kinh khác cũng có liên hệ tới Kinh Samiddhi, chúng ta sẽ có dịp tham cứu.

PHI THỜI: MỘT CHỦ ĐỀ LỚN CỦA KINH TAM DI ĐỀ.

Đối thoại với Thiên nữ, câu trả lời đầu tiên của thầy Samiddhi là: “Tôi đâu có bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời (akalika)? Chính tôi đã bỏ cái lạc thú phi thời để đi tìm cái lạc thú chân thật trong hiện tại đấy chứ”. Tiếng Phạn kala có nghĩa là thời gian, còn kalika là nằm trong thời gian và khi thêm chữ “a” vào thì thành akalika, nghĩa là không nằm trong thời gian, nghĩa là phi thời. Cách dùng chữ trong kinh điển rất là mầu nhiệm, ta phải cẩn thận lắm mới hiểu được.

Kinh có ghi lại lời Bụt đã nói với vua Ba Tư Nặc về vấn đề vượt thoát thời gian. Khi nhà vua đến thăm Bụt lần đầu tiên thì Bụt mới có 38 tuổi. Vua đã hỏi Bụt: “Sa môn Gotama, người ta thường ca ngợi Ngài là Bụt, là người đã đạt tới quả vị giác ngộ cao nhất, trẫm băn khoăn tự hỏi: tuổi Ngài còn nhỏ, năm tu của Ngài cũng còn ít thế mà tại sao Ngài lại có thể đạt tới thành quả đó được? Trẫm đã nghe nói đến nhiều vị đạo cao đức trọng như Purana Kassapa, như Makkhali Gosala v.v… họ là những vị tu lâu năm tuổi tác đều lớn tại sao họ không tự nhận là bậc Chánh Biến Tri Giác?” Bụt ôn tồn trả lời: “Đại Vương, vấn đề chứng ngộ không phải là vấn đề tuổi tác, vấn đề chứng ngộ không phải là vấn đề thời gian“. Rồi Ngài đem ra bốn ví dụ để khai thị cho vua. Ngài nói: “Đại Vương, có những cái bé nhỏ mà ta không nên khinh thường: một vị Vương tử bé, một con rắn con, một đốm lửa nhỏ, và một nhà tu trẻ. Vị Vương tử tuy còn bé, mới có 3, 4 tháng thôi nhưng cũng có Vương tính của một Đức Vua như Bệ Hạ bây giờ. Một con rắn độc tuy nhỏ bằng chiếc đũa, nhưng nó có thể làm ta mạng trong chốt lát. Một đốm lửa hồng có thể làm thiêu rụi một khu rừng hay một thành phố lớn. Một nhà tu trẻ có thể đạt tới quả vị giác ngộ hoàn toàn, vì tuy trẻ nhưng vị ấy có giác ngộ tính bên trong. Đại Vương! Người khôn ngoan không bao giờ khinh thường một Vương tử bé, một con rắn nhỏ, một đốm lửa hồng hay một nhà tu trẻ”.

Câu trả lời của Bụt bao gồm trong mấy chữ “giác ngộ không phải là vấn đề thời gian, không thuộc về thời gian“. Chữ kalika ở đây có nghĩa là thuộc về thời gian, bị thời gian chi phối. Còn akalika là vượt ra khỏi thời gian, không bị thời gian chi phối. Akalika là một danh từ dùng để diễn tả Pháp của Bụt. Trong văn học Phật Giáo có một từ rất hay, đó là kiếp ngoại. Kiếp tức là Kalpa, có nghĩa là thời gian. Ngoại tức là ngoài. Ngày xưa thầy Trọng Ân có làm một bài thơ nói về Ngày Đản Sanh, trong đó thầy viết:” Hoa nở trong kiếp ngoại”. Đây là một thứ hoa không tàn phai vì thời gian. Ta có thể dùng chữ thời ngoại, nhưng không hay bằng chữ kiếp ngoại. Kinh Tam Di Đề thì dùng chữ phi thời. Nhưng kinh này được dịch vào khoảng thế kỷ thứ IV, do đó ta có thể thay bằng những chữ mà ta thấy nó hợp thời gian, ví dụ như kiếp ngoại hay thời ngoại.

Hôm trước quí vị đã cùng thực tập tụng kinh Pali, chúng ta đã tụng: Svàkkhàto bhagavatà dhammo, sanditthiko, akaliko, chipassiko … Akaliko là phi thời, tức là vượt thoát thời gian. Ban đầu vị thiên giả nói rằng sự tu học xuất gia hành đạo có tính cách phi thời, ở đây cô có ý nói là không đúng lúc. Tại sao thầy còn trẻ mà lại đi xuất gia? Cô đã dùng chữ phi thời theo nghĩa đó. Nhưng trong giáo pháp, chữ phi thời lại có nghĩa là vượt thoát thời gian, không bị thời gian chi phối. Cũng trong giáo pháp, ta học rằng dục vọng nằm trong thời gian và bi thời gian chi phối. Cái hay của câu kinh là ở chỗ đó. Nó gần giống như một sự chơi chữ. Hai bên nói hai ngôn ngữ khác nhau. Một bên thế tục thì nói: “Tại sao lại bỏ cái vui hiện tại để đi tìm cái vui phi thời?”. Một bên đã xuất gia thì nói: “Cái mà cô gọi là thú vui hiện tại là cái đang bị thời gian chi phối, vì nó nằm ở trong thời gian. Cái mà tôi đang thực hiện, đang sống đây là cái vượt thời gian, nó không bị thời gian chi phối.

Muốn hiểu rõ hơn đoạn này, quí vị có thể đọc thêm Kinh Người Áo Trắng, trong đó tôi có giải thích tường tận những danh từ này (Akalika, Ehipassika, Samditthika, Opanayika). Những danh từ đó là một tả tính chất mầu nhiệm của giáo Pháp đạo Bụt.

“Tôi đâu có bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời, chính tôi đã bỏ cái lạc thú phi thời để tìm tới cái lạc thú chân thực trong hiện tại đấy chứ!” Câu nói này cố nhiên là vị thiên giả không hiểu, tại vì thầy Samiddhi chưa giảng cho cô hay Bụt có dạy rằng tu học thì mình có hạnh phúc ngay trong hiện tại và giáo pháp mà mình đang tu tập có thể cho mình niềm vui ngay trong hiện tại. Mình có hạnh phúc ngay trong khi mình tu học.

Có một mệnh đề được ghi lại trong rất nhiều kinh nhưng không thường được nhắc tới, đó là mệnh đề Hiện Pháp Lạc Trú. Hiện Pháp tức là cái gì đang xảy ra trong hiện tại. An trú một cách có hạnh phúc ở trong giây phút hiện tại thì gọi là hiện pháp lạc trú (Ditthadhamma Sukhavihari). Ditthadhamma là hiện pháp; Sukha là lạc; Vihari tức là trú; Sukhavihari là lạc trú. Đây là tinh túy của giáo pháp đạo Bụt: “Trong khi tu học, ta phải để tâm tiếp xúc với hiện tại mầu nhiệm và phải có an lạc ngay trong khi tu học”. Ví dụ khi đi thiền hành, ta không đi thiền hành cho tương lai mà đi cho hiện tại, mỗi bước chân phải đem lại an lạc, mỗi bước chân phải có tác dụng nuôi dưỡng ta. Khi ngồi thiền cũng vậy, ta không ngồi cho tương lai mà phải ngồi làm sao để có an lạc và có hạnh phúc ngay bây giờ. Khi rửa nồi, nấu cơm, rửa bát, ta đều phải thực tập cái pháp gọi là Hiện Pháp Lạc trú. Trong câu trả lời kể trên, tuy rằng thầy Samiddhi không nói thẳng ra, nhưng thầy đã có ý nói với vị thiên giả là tôi đang có hạnh phúc đây, tại vì tôi đang thực tập theo cái nguyên tắc gọi là hiện pháp lạc trú. Tôi đang có hạnh phúc thật sự ngay trong giờ phút hiện tại, chứ tôi không đang chạy theo một bóng dáng của hạnh phúc trong tương lai. Bóng dáng của hạnh phúc là danh, là lợi, là tài, là sắc. chúng chỉ mới là bóng dáng thôi, và chính đó mới là phi thời, còn trong sự thực tập của một khất sĩ thì cái hạnh phúc đó là cái hạnh phúc đang có, cho nên cô không thể nói rằng tôi đang đi theo một cái gì phi thời được.

1.3 Chủ Đề Hạnh Phúc Trong Vài Kinh Khác

Trong kho tàng kinh điển của đạo Bụt, có nhiều kinh khác cũng đề cập đến hạnh phúc trong hiện tại. Ta kể ra đây một kinh bằng chữ Hán và một bằng chữ Pali. Kinh ngắn nhưng rất hay. Nhưng kinh này vì ngắn nên ta có thể đọc nguyên văn bằng chữ Hán hay là bằng tiếng Pali, rất dễ và rất vui. Mỗi kinh gồm có ba bài kệ và mỗi bài chỉ có mấy câu thôi. Về bài kinh chữ Hán ta có hai bản văn: Bản thứ nhất trích từ bộ Biệt Dịch Tạp A Hàm, kinh thứ 132. Bản thứ nhì từ trong bộ Tạp A Hàm, kinh thứ 995.

Bài dịch từ Biệt Dịch Tạp A Hàm kinh thứ 132 như sau:

“ Đây là những điều tôi nghe vào một thời Bụt đang cư trú ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc. Có một vị thiên giả hào quang vả vẻ đẹp sáng tốt bội phần, trong đêm hiện đến chỗ Bụt ngồi. Sau khi làm lễ dưới chân Bụt, vị thiên giả ngồi xuống một bên. Lúc bấy giờ hào quang của vị thiên giả bừng sáng lên một cách rực rỡ, soi chiếu khiến cho tu viện Kỳ Hoàn trở nên sáng rực. Rồi vị thiên giả, trong khi ngồi một bên Bụt, nói lên bài kệ sau đây:

Ở chốn A Lan Nhã,
Tu phạm hạnh vắng lặng,
Mỗi ngày một bữa ăn,
Sao nhan sắc vui tươi

Bụt trả lời:

Không cần sầu luyến quá khứ,
Không cầu mong tương lai,
Hiện tại nuôi chánh trí,
Đoạn dục để giữ mình,
Sáu tình đều nhẹ nhõm,
Nên nét mặt vui tươi.

Bụt dạy tiếp:

Tương lai còn mong cầu,
Quá khứ còn truy niệm,
Như cỏ non xanh tốt,
Cắt rồi phơi giữa nắng,
Kẻ phàm phu khô héo,
Chỉ vì ngần ấy thôi.

Lúc đó vị thiên giả rất vui mừng, liền đọc một bài kệ để tán dương Bụt:

Quá khứ đã từng thấy,
Trượng phu đạt Niết Bàn,
Lìa sợ hãi nghi ngờ,
Vượt qua biển ân ái.

Ta thử tìm hiểu nghĩa từng câu. Ở chốn A Lan Nhã có nghĩa là ở nơi chốn núi rừng. A Lan Nhã tức là núi rừng, àrajnã (tiếng phạn: àranya) là thuộc về rừng. Ở Chợ lớn có một ngôi chùa gọi là Bồ Đề Lan Nhã. Các thầy ngày xưa ở trong rừng cho yên tĩnh nên gọi là “ở chốn A Lan Nhã”.

Tu phạm hạnh vắng lặng. Tu phạm hạnh tức là hành trì giới luật tinh khiết.

Mỗi ngày một bữa ăn, sao nhan sắc vui tươi? Các thầy ở chỗ vắng hoe, không có xe hơi, không có truyền hình, không có rạp hát, không có phố xá, mỗi ngày một bữa thôi, tại sao mặt mày người nào người nấy sáng rỡ và vui tươi như vậy? Trong sáu câu kệ kế tiếp Bụt dạy rằng người không biết tu tập là người phàm phu, cứ ngồi thắc mắc lo lắng và mong cầu về tương lai hoặc than khóc, tiếc thương và truy niệm về quá khứ. Họ giống như những ngọn cỏ non bị người ta cắt đứt đem phơi giữa nắng. Sau đó bốn câu tán dương Bụt của vị thiên giả, nó có nghĩa rằng: “Con đã từng thấy một vị Đại trưỡng phu đạt tới Niết Bàn, lìa bỏ tất cả những sợ hãi nghi ngờ và vượt qua được tất cả những biển ân ái trong đời, chặt đứt được những cái dây mà kẻ khác cứ khăng khăng mình buộc lấy mình vào trong”.

Dựa vào văn bản trích từ Tạp A Hàm. Kinh thứ 995, tôi dịch như sau:

Khất sĩ trong rừng cây,
Sống vắng lặng nhẹ nhàng,
Tu phạm hạnh thanh tịnh,
Mỗi ngày một bữa ăn,
Lý do nào khiến họ,
Mặt mày luôn sáng rỡ?

Bụt trả lời:

Không sầu luyến quá khứ,
Không mong mỏi tương lai,
Chánh trí luôn hành trì,
Sống trong giờ hiện tại,
Ăn cơm trong chánh niệm,
Nên mặt mày tươi vui.
Kẻ ngu si sầu héo,
Như cỏ tươi bị cắt,
Vì vướng mắc quá khứ,
Vì theo đưổi tương lai.

Vị thiên giả tán dương:

Đã từng thấy trượng phu,
Đạt niết bàn vững chãi,
Mọi khổ nạn qua rồi,
Vượt thoát ngàn ân ái”.

Ta thấy ý Kinh trong Tạp A Hàm cũng giống như trong Biệt Dịch Tạp A Hàm. Tuy vậy trong Biệt Dịch Tạp A Hàm có thêm câu “Sáu tình đều nhẹ nhõm”.

Kinh thứ hai nằm ở trong tạng Pali. Kinh này cũng nói về đề tài sống hạnh phúc và thảnh thơi. Đó là Kinh Samyutta 194, dịch là Kinh Ở Rừng. Kinh này không phải do Bụt nói mà là do một thầy kể lại những điều của một vị thiên giả nói ở trong rừng.

“Một thuở nọ có nhiều vị khất sĩ kiết hạ tại một khu rừng thuộc miền quê nước Kosala. Các vị khất sĩ sau khi đã hoàn mãn khóa an cư ba tháng, bắt đầu rời khu rừng đi du hành. Một vị thiên giả trú ở trong khu rừng này thấy vắng bóng các vị khất sĩ, liền than thở, buồn bã nói lên bài kệ sau đây:

Hôm nay trong lòng ta,
Trống vắng không niềm vui.
Những chỗ ngồi hôm qua,
Giờ đây không người ngồi.
Các bậc đa văn ấy,
Thuyết pháp thật là giỏi.
Đệ tử Đức Thế Tôn,
Hiện đi đâu hết rồi?

Vị thiên giả này rầu lắm vì trước đó ngày nào ông ta cũng được thấy các thầy ngồi ăn cơm im lặng, ngồi thiền và đi kinh hành. Ngày nào cũng được nghe các thầy thuyết pháp nhưng bây giờ các thầy đã đi hết và khu rừng vắng hoe!

Khi nghe bài kệ đó, một vị thiên giả khác bèn dùng một bài kệ để đáp lại:

Họ đi Ma Kiệt Đà!
Họ đi Cô Sa La!
Còn những vị khất sĩ khác,
Lại đi về Vajja!
Như nai thoát bẫy sập,
Chạy nhảy khắp bốn phương,
Đời sống người xuất gia,
Là thảnh thơi như thế!

“Họ đi Ma Kiệt Đà”, Ma Kiệt Đà là một nước ở miền Nam sông Hằng, tức là Vương quốc Magadha của vua Tần Bà Xa La (Bimbisara).

“Họ đi Cô Sa La”, Cô Sa tức là Vương quốc Kosala ở thượng lưu sông Hằng, xứ của Vua Ba Tư Nặc (Prasanajit).

“Còn những khất sĩ khác, lại đi về Vajja”. Vajja có khi gọi là Vajji, là một nước nhỏ ở miền Bắc sông Hằng. Thủ đô của nó là Tỳ Xá Ly (Vaisali). Đây là nước đầu tiên ở Ấn Độ thiết lập được một nền dân chủ. Họ có quốc hội sớm nhất trên thế giới. Bụt có một tu viện ở đó và đó cũng là quê hương của Ambapali, người đã cúng dường cho Bụt một khu vườn xoài rất mát. Ambapali là một cô ca sĩ nổi tiếng đương thời, trước kia đã là tình nhân của Vua Tần Bà Xa La.

“Như nai thoát bẫy sập, chạy nhảy khắp bốn phương, đời sống người xuất gia, là thảnh thơi như thế”. Ta phải hiểu rằng bẫy sập này là cái bẫy của năm thứ dục lạc: tài (tiến bạc); sắc (sắc đẹp); danh (tiếng tăm); thực (thức ăn ngon); và thụy (mê ngủ). Như nai thoát bẫy sập là những con người không bị những “cái bẫy của năm thứ dục vọng” giam cầm. Thoát khỏi những cái bẫy như vậy rồi thì bày nai có thể chạy nhay khắp bốn phương. Những người khất sĩ cũng vậy, đời sống của người xuất gia là thảnh thơi như thế. Thảnh thơi ở đây có nghĩa là không bị vướng vào cái vòng kềm chế của năm thức dục lạc. Những kinh như kinh này đều nói về cái hạnh phúc mà chúng ta thực tập theo chánh pháp. Ngay trong thời gian tu học với nhau trong hiện tại.

Trở lại với Kinh Tam Di Đề:

Vị thiên nữ hỏi:

– “Thế nào là bỏ cái lạc thú phi thời để đi tìm cái lạc thú chân thật trong hiện tại?”

Vị khất sĩ đáp:

– “Đức Thế Tôn có dạy: trong cái vui phi thời của ái dục, vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều. Cái hưởng thụ rất bé mà cái tai họa rất lớn. Tôi giờ này đang an trú trơng hiện pháp. Lìa bỏ được những ngọn lửa phiền não đốt cháy. Hiện pháp này vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, tự mình thông đạt, tự mình có thể giác tri. Này thiên nữ, đó gọi là bỏ cái lạc thú phi thời để đạt tới cái lạc thú chân thực trong hiện tại”.

Khi đọc một đoạn kinh như trên, ta thường nghĩ rằng chúng ta có thể hiểu được dễ dàng, nhưng khi đi sâu vào từng từ ở trong kinh ta mới thấy những đoạn kinh này rất sâu sắc, rất thâm diệu. Ta sẽ từ từ nghiên cứu trong các bài Pháp thoại sau này

CHƯƠNG 2

KINH TAM DI ĐỀ

2.1 Kinh văn (Tạp A Hàm Kinh số 1078)

Đây là những điều tôi được nghe vào một thời mà Bụt đang cư trú ở Tu viện Trúc Lâm Ca Lan Đà tại kinh thành Vương xá. Một sớm mai nọ, có vị khất sĩ ra sông, cởi y áo để trên bờ rồi xuống nước tắm gội. Tắm xong, vị ấy lên bờ đợi cho khô mình mẩy rồi mặc áo vào. Bấy giờ có một vị thiên nữ xuất hiện, hào quang từ thân hình phát ra sáng chói, soi rõ cả bờ sông. Thiên nữ nói với vị khất sĩ:

– “Thầy là một người mới xuất gia, tóc còn xanh, tuổi còn trẻ, giờ này đáng lý phải xông ướp hương thơm, trang điểm châu báu, đeo tràng hoa thơm mà hưởng thọ năm thứ vui thú, Trong khi đó thì thầy lại bỏ những người thương, quay lưng lại với cuộc đời thế tục, chịu đựng sự biệt ly, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, tin tưởng vào con đường xuất gia học đạo. Tại sao lại bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời như thế?”.

Vị khất sĩ đáp:

– “Tôi đâu có bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời? Chính tôi đã bỏ cái lạc thú phi thời để tìm tới cái lạc thú chân thú chân thật trong hiện tại đó chứ!”

Vị khất sĩ đáp:

– Đức Thế Tôn có dạy: Trong cái vui phi thời của ái dục, vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều, cái hưởng thụ rất bé mà tai họa rất lớn. Tôi giờ này đang an trú trong hiện pháp, lìa bỏ được những ngọn lửa phiền não đốt cháy. Hiện pháp này vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, tự mình thông đạt, tự mình có thể giác tri. Này thiên nữ, đó gọi là bỏ cái lạc thú phi thời để đạt tới cái lạc thú chân thực trong hiện tại”.

Vị thiên nữ lại hỏi vị khất sĩ:

– “Tại sao Đức Thế Tôn lại nói trong cái vui phi thời của ái dục vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều, cái hưởng thụ rất mà mà tai họa rất lớn? Tại sao Đức Thế Tôn lại nói an trú trong hiện pháp là lìa bỏ được những ngọn lửa phiền não đốt cháy, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, tự mình thông đạt, tự mình có thể giác tri?”

Vị khất sĩ trả lời:

– “Tôi mới xuất gia được có mấy năm, không đủ sức giảng bày rộng rãi những giáo pháp và luật nghi mà Đức Như Lai tuyên thuyết. Hiện Đức Thế Tôn đang cư ngụ gần đây, nơi rừng tre Ca Lan Đà, thiên nữ có thể tới với Người để trình bày những nghi vấn của thiên nữ. Đức Như Lai sẽ dạy cho thiên nữ chánh pháp để tùy nghi thọ trì”.

Vị thiên nữ nói:

“Thưa khất sĩ, Đức Như Lai đang được các vị thiên giả có nhiều uy lực túc trực bao quanh, tôi không dễ gì có cơ hội để tới gần Người mà hỏi Đạo. Nếu thầy có thể đến Đức Thế Tôn để thỉnh vấn trước giùm tôi thì tôi sẽ xin đi theo thầy”.

Vị khất sĩ nói:

– “Tôi sẽ đi giúp thiên nữ”.

Vị thiên nữ:

– “Thưa tôn giả vâng, tôi sẽ đi theo tôn giả”.

Lúc ấy vị khất sĩ kia đi đến nơi Bụt ở,cúi đầu làm lễ dưới chân Người, lui ra đứng một bên và đem câu chuyện đã nói với vị thiên nữ thuật lên cho Bụt nghe. Rồi thầy tiếp:

– “Bạch Đức Thế Tôn, nếu vị thiên nữ kia có tâm thành khẩn thì giờ này vị ấy đã có mặt ở đây rồi. Nếu không thì có lẽ vị ấy đã không tới”. Lúc bấy giờ có tiếng vị thiên nữ từ xa vọng lại:

– “Thưa Tôn giả, tôi đang có mặt đây, tôi đang có mặt đây”. Và vị Thiên nữ tới gần.

Đức Thế Tôn liền nói cho Thiên nữ nghe bài kệ sau đây:

Không thấy rõ ái dục
Mới vướng vào ái dục
Ảo tưởng về ái dục
Đưa người về nẻo chết.

Rồi Bụt hỏi vị thiên nữ:

– “Con có hiểu bài kệ ấy không? Nếu chưa hiểu thì cứ nói”.

Vị thiên nữ bạch Bụt:

– “Con thật tình chưa hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con thật tình chưa hiểu, bạch Đức Thiện Thệ”.

Bụt lại đọc cho vị thiên nữ nghe một bài kệ khác:

Thấy chân tướng ái dục
Tâm ái dục không sinh
Tâm ái dục không sinh
Ai cám dỗ được mình?

Rồi Bụt hỏi vị thiên nữ:

– “Còn bài kệ này con có hiểu không? Nếu không hiểu thì con cứ nói”.

Vị thiên nữ bạch Bụt:

– “Con cũng chưa hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con cũng chưa hiểu, bạch Đức Thiện Thệ”.

Bụt lại đọc cho vị thiên nữ nghe một bài kệ khác:

Mặc cảm hơn, kém, bằng
Tạo ra nhiều rối rắm
Ba mạn đã vượt rồi
Tâm không còn khuynh động.

Đọc xong Bụt lại hỏi vị thiên nữ:

– “Bây giờ con đã hiểu bài kệ ấy chưa? Nếu chưa hiểu thì con cứ nói”.

Vị thiên nữ bạch Bụt:

– “Con vẫn chưa hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con vẫn chưa hiểu, bạch Đức Thiện Thệ”.

Bụt lại đọc cho vị thiên nữ nghe một bài kệ khác nữa:

Trừ dục, vượt ba mạn
Tâm lặng, hết mong cầu
Mọi đau phiền cởi bỏ
Đời này và đời sau.

Rồi Bụt hỏi vị thiên nữ:

– “Lần này con có hiểu được ý nghĩa bài kệ không? Nếu không thì con vẫn có thể hỏi thêm”.

Thiên nữ bạch Bụt:

– “Con đã hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con đã hiểu bạch Đức Thiện Thệ”.

Kinh này Bụt đã nói xong. Nghe Bụt dạy, vị thiên nữ vui mừng vâng theo, biến đi và không ai còn trông thấy tăm dạng cô đâu nữa.

CHƯƠNG 3

NỘI DUNG KINH TAM DI ĐỀ

3.1 Pháp thoại ngày 4 tháng 9 năm 1994

3.2 Pháp thoại ngày 8 tháng 9 năm 1994

3.3 Pháp thoại ngày 11 tháng 9 năm 1994

3.4 Pháp thoại ngày 14 tháng 9 năm 1994

3.5 Pháp thoại ngày 29 tháng 9 năm 1994

3.6 Pháp thoại ngày 2 tháng 10 năm 1994

CHƯƠNG 4

NHỮNG CHỦ ĐỀ LỚN TRONG KINH TAM DI ĐỀ

4.1 Pháp Thoại Ngày 06 tháng 10 năm 1994

Thưa đại chúng hôm nay là ngày mồng 06 tháng 10 năm 1994, chúng ta đang ở xóm Thượng, trong Khóa Tu Mùa Thu.

Phần đầu của buổi pháp thoại hôm nay, tôi dành để kết thúc Kinh Samiddhi, sau đó chúng ta sẽ bắt đầu học về Tứ Vô Lượng Tâm (3).

(3) Những giảng dạy về Tứ Vô Lượng Tâm đã được phiên tả và in lại trong cuốn “Thương Yêu theo phương pháp Bụt dạy”, Nhất Hạnh, Lá Bối xuất bản, 1995.

Kinh Samiddhi có nhiều chủ đềrất quan trọng. Chủ đề thứ nhất là Ý Niệm Về Hạnh Phúc. Ta đã thấy rằng những ý niệm về hạnh phúc có thể là những bẫy sập, giam hãm chúng ta trong vòng khổ đau. Vì vậy mà ý niệm về hạnh phúc nó liên hệ tới ý niệm về những bẫy sập của ngũ dục. Cách đây chừng một tháng, có một đạo hữu từ Hòa Lan sang Làng tu học. Các vị ở xóm Hạ hỏi thăm tại sao các cháu không cùng sang, đạo hữu ấy nói: “Dạ vì các cháu đang vướng vào bẫy ngũ dục”. Đạo hữu đó thấy các con mình đang vướng vào những nỗi khổ của ngũ dục, rất khó thoát ra mà ông không làm gì được hết! Đối với không biết giáo pháp đạo Bụt, ngũ dục là con đường của hạnh phúc, là con đường đưa đến hạnh phúc. Ngược lại Kinh Samiddhi nói rằng đó là những nẻo đường tăm tối, khổ đau. Chúng ta phải có lòng thương, sự hiểu biết, và đạo lực khá thâm hậu thì mới giúp họ thoát khỏi những bẫy sập của ngũ dục được, nếu không thì chúng ta chỉ đứng ngoài mà thương hại thôi. Nói rõ ra, không tu học thì không có khả năng giúp người thoát khỏi những bẫy sập ngũ dục.

Chủ đề thứ hai của Kinh Tam Di Đề là Hiện Pháp Lạc Trú. Khi vị Thiên nữ hỏi tại sao thầy lại bỏ lạc thú trong hiện tại để đi tìm lạc thú hứa hẹn trong tương lai, tìm cái lạc thú phi thời? Thì thầy Samiddhi nói rằng: Tôi đâu có bỏ hạnh phúc trong hiện tại để đi tìm một hạnh phúc hứa hẹn hão huyền ở tương lai đâu? Chính tôi đã bỏ cái hạnh phúc hão huyền kia để đi tìm một cái hạnh phúc có sẵn trong giây phút hiện tại đấy chứ! Thầy Samiddhi cũng nói thêm với vị Thiên nữ rằng ngũ dục đem lại cho chúng ta những cơn sốt, những nỗi khổ đau, trong khi đó thì pháp hiện pháp lạc trú đem lại hạnh phúc cho chúng ta ngay bây giờ và ở đây, không phải tìm đâu xa. Vì vậy trong kinh có danh từ vượt thoát thời gian (akalika), nghĩa là không có thời gian tính. Đây cũng là một chủ đề rất lớn trong toàn bộ giáo lý của đạo Bụt, và thường được xem là kim chỉ đạo của sự tu học Hiện Pháp Lạc Trú. Tiếc rằng có rất ít Thiền viện và Trung tâm tu học đưa chủ đề này ra để khai triển!

Chủ đề thứ ba là Nương Tựa. Nương tựa ở đây là nương tựa vào Pháp, vào một cái gì không phải là ý niệm. Khi sống với Chánh Pháp chúng ta đạt được sự an lạc, sự vững chãi, sự thảnh thơi. Nương tựa vào Pháp còn được gọi là nương tựa vào hải đảo tự thân.

Chủ đề thứ tư của Kinh Samiddhi là Mặc Cảm, hay là Mạn. Ba cái mặc cảm hơn người, thua người, và bằng người đều do ý niệm gọi là ngã chấp mà sinh ra. Khi quán chiếu để thấy được sự tương quan, tương liên hay tương tức của vạn pháp, chúng ta thấy được mọi sự sống là một, ta với người, ta với cây cỏ là một. Cũng vậy, sự bình an, niềm hạnh phúc không phải là vấn đề cá nhân, không thể nào có vấn đề hạnh phúc cá nhân. Khi chúng ta vượt thoát được ý niệm về ngã, thì tất cả những sợ hãi, lo lắng, giận hờn, buồn phiền, sẽ tan biến và hạnh phúc có thể có mặt thật sự. Khi niềm vui được xây dựng trên ý niệm về ngã thì niềm vui đó tính cách mong manh, không vững chãi, không đích thực. Chỉ khi nào sự sợ hãi vắng mặt, nỗi lo lắng giận hờn tan biến, thì niềm vui đó mới là niềm vui đích thực mà thôi.

Giảng dạy ý niệm về hạnh phúc, Bụt đưa ra ví dụ của một người bị án tử hình. Người tử tội biết rằng trong vòng bảy ngày nữa thì mình sẽ bị đem ra chém đầu. May có sự can thiệp của người thân, án được giảm xuống còn khổ sai chung thân. Khi nghe tuyên án lại ông ta rất đỗi vui mừng, nhảy nhót sung sướng ! Bụt kết luận cái sung sướng vì bản án khổ sai chung thân, đâu phải là cái sung sướng thật? Chỉ vì đem so sánh với bản án tử hình, thì khổ sai chung thân mới được xem là một niềm vui. Thật ra nó có hạnh phúc gì đâu?

Biết bao nhiêu người trẻ trên thế giới, vì có những niềm đau mà họ đi tìm hạnh phúc trong năm thứ dục lạc. Khi sống trong năm thú dục lạc, họ không tìm được hạnh phúc chân thật, mà họ chỉ tìm được “niềm vui của ban án khổ sai chung thân”, để vùi lấp niềm đau của bản án tử hình mà thôi. Đó là một tấm bi kịch rất lớn của loài người. Với ma túy cũng vậy, ma túy làm cho con người rất khổ đau, nhưng vì “cái niềm đau kia” nó lớn quá, nên mình phải đi tìm ma túy để khỏa lấp. Thật ra ma túy là một bản án khổ sai chung thân để che lấp cái bản án tử hình mà mình đang mang! Thấy được vậy chúng ta sẽ thương, mà thương thì chúng ta phải tu học để có khả năng cứu độ và đưa những người trẻ đó ra khỏi vũng lầy của cuộc đời.

Thực tập hiện pháp lạc trú, thực tập nương tựa, thực tập quán chiếu về vô ngã, càng lúc chúng ta càng đạt được sự vững chãi và thanh thơi, hai đặc tính của Niết Bàn. Khi đó, cái hiện pháp Niết Bàn sẽ từ từ hiển lộ ra cho chúng ta tiếp xúc. Tiếp xúc được với Niết Bàn một cách sâu sắc, thì sự vững chãi thảnh thơi của mình sẽ trở thành lớn lao và vững mạnh, lúc đó hạnh phúc mới là hạnh phúc chân thật, mới là hạnh phúc hoàn toàn. Như vậy, từ cái Tích Môn, chúng ta tiếp xúc được với cái Bản Môn.

PHỤ LỤC

Góp nhặt những đoạn Pháp Thoại Thiền Sư Nhất Hạnh đã nói trong cùng khóa tu về các vấn đề có liên quan đến việc tu tập hàng ngày của Tăng chúng Làng mai.

A1. Giới Luật Trong Đạo Bụt

A2. Cách Nghe Và Nói Pháp Thoại

A1. Giới Luật Trong Đạo Bụt

(Trong Pháp Thoại ngày 04-9-1994)

Những vị Sư cô nào đã thọ giới lớn trong Đại Giới Đàn Hương Tích vừa qua thì nên nhớ theo học lớp của Sư Cô Chân Đức và tìm cách tự mình học thêm về giới luật. Trước thời gian Đại Giới Đàn, Sư Cô Chân Đức có mở một lớp dạy về giới lớn cho các vị giới tử Tỳ Kheo Ni. Rất tiếc là những bài giảng trong suốt hai tuần lễ đó đã không được thâu băng đầy đủ. Tôi hy vọng trong khóa tu này Sư Cô Chân Đức có thể dạy lại những điều mà Sư Cô đã dạy trong mùa hè vừa qua. Ngoài ra, trong khóa Đại Tạng Nam truyền trước đây tôi cũng có giảng một số bài về Ba la đề mộc xoa. Các vị đã thọ giới lớn có thể học lại những bài giảng đó. Cuối năm 1994, tôi sẽ có dịp kiểm điểm lại cách học hỏi và hành trì giới lớn của quí vị. Còn các vị đã thọ giới Sa di và Sa di ni trong giới đàn vừa qua cũng vậy. Vì mới thọ giới nên mình chưa biết nhiều về giới, cho nên quí vị phải bắt đầu học cho thấu đáo giới Sa di và Sa di ni.

Như quí vị đã biết, theo truyền thống thiền, chúng ta phải học bốn phần của giới luật Sa di và Sa di ni. Phần đầu tiên là Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu. Phần này gồm những bài thi kệ để thực tập chánh niệm. Ngày xưa khi mới đi tu, tôi đã học những bài thi kệ này bằng chữ Nho, nhưng bây giờ chúng ta đã có sách tiếng Việt, những bài thi kệ này đã được chú giải và in thành sách. Đó là cuốn Từng Bước Nở Hoa Sen. Có khoảng 50 bài thi kệ để chúng ta thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày. Ví dụ trước khi rồ máy xe hơi chúng ta có một bài kệ để thực tập:

Trước khi cho máy nổ,
Tôi biết tôi đi đâu,
Xe với tôi là một,
Xe mau tôi cũng mau.

Lấy nước vào ấm nấu nước hay chậu rửa chén cũng vậy. Khi tay chạm vào vòi nước thì ta phải thở và thực tập bài kệ vặn nước:

Nước từ nguồn suối cao,
Nước từ lòng đất sâu,
Nước mầu nhiệm tuôn chảy,
Ơn nước luôn tràn đầy.

Lúc mở đèn, ta nhiếp niệm để đọc bài kệ mở đèn:

Thất niệm là bóng đêm,
Chánh niệm là ánh sáng,
Đưa tỉnh thức trở về,
Cho thế gian tỏ rạng.

Tất cả các vị đã thọ giới Sa di và Sa di ni đều phải học thuộc lòng những bài kệ đó để thực tập theo. Sư cô Bích Nghiêm mỗi khi lái xe, trước khi mở máy, đều thực tập bài kệ rồ máy xe rất đàng hoàng. Có thực tập những bài kệ đó, ta mới thật sự tu học theo truyền thống thiền.

Trong thiền tông, thi ca đóng một vai trò rất quan trọng trong sự thực tập. Thuộc lòng những bài thi kệ trong cuốn Từng Bước Nở Hoa Sen, mình mới thực tập được. Nói như vậy không có nghĩa là chỉ những người thọ giới Sa di và Sa di ni mới phải học những bài kệ đó, còn những người đã thọ giới lớn thì không phải học. Những người đã thọ giới lớn nếu chưa học thuộc những bài đó hay nếu chưa thực tập nghiêm chỉnh thì cũng phải học lại. Không lý các Sư em của mình học và thực tập giỏi mà mình là không làm được như vậy hay sao. Mình có thể học và thực tập bằng tiếng mẹ đẻ. Nếu là người Anh thì ta đọc thi kệ bằng tiếng Anh, là người Thái ta đọc bằng tiếng Thái Lan, người Việt, ta thực tập theo tiếng Việt. Không những các vị đã thọ giới rồi mới thực tập theo phương pháp này, mà những người Tiếp Hiện, sắp thọ giới Tiếp Hiện hay chưa thọ giới Tiếp Hiện cũng phải thực tập những bài thi kệ này. Nếu không thì ta không có cách gì để thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày cả. Ta phải phối hợp hơi thở với những bài thi kệ để thực tập. Rửa tay thì biết là mình rửa tay, giặt áo thì biết là mình giặt áo, qua cầu thì biết là mình qua cầu …

Phần thứ hai của giới luật Sa Di Luật Nghi Yếu Lượctức là phần nói về giới tướng của mười giới. Chúng ta nên tham khảo giới Tiếp Hiện và Năm Giới để có thể hiểu thêm được nội dung của 10 giới. Nội dung của 10 giới rất giàu có. Vì vậy cho nên 10 giới phải được thực hiện trong tinh thần của Năm Giới và trong tinh thần giới Tiếp Hiện. Sau này sẽ có một cuốn sách nói về 10 giới của người Sa di và Sa di ni (4).

(4) Hồi này (1994) cuốn “Bước tới thảnh thơi” dành cho các vị Sa di và Sa di ni chưa ra đời.

Phần thứ ba của giới luật Sa di và Sa di ni là Uy Nghimà ta dịch là “Mindful Manners” hay là “Fine Manners”. Có 24 thiên nói về uy nghi, nghĩa là có 24 chương nói về sự thực tập chánh niệm của một Sa di hay Sa di ni. Ví dụ khi vào Chánh điện thì ta phải có tác phong như thế nào, đi chợ thì trong thời gian đi phải có tác phong ra sao v.v… Tại Làng Mai ta đã từng học theo bản văn cổ điển, nhưng bản này đã được ta nghiên cứu và gia giảm. Các vị đã thọ giới Sa di và Sa di ni phải học và phải thực tập cho nghiêm chỉnh. Có một chương dạy về cách làm thị giả, một chương dạy về cách cư xử với những người đã thọ giới lớn, trong đó dạy rất rõ bổn phận của mình đối với những Sư anh hay Sư chị đã thọ giới lớn như thế nào. Tất cả những nghi thức đó mình phải hiểu. Mặc dù mình mới thọ giới Sa di hay Sa di ni và có thể mình chưa biết gì nhiều về nội dung và bản chất của một người Sa di hay Sa di ni. Thọ giới là chuyện dễ nhưng trì giới không phải là chuyện dễ. Mình cần phải học hỏi và hành trì lâu ngày mới được. Cuối năm 1994 ta sẽ có cơ hội kiểm điểm lại cái học và hành của quí vị về giới Sa di, Sa di ni và giới lớn. Tuy phần thứ ba của giới luật có 24 chương, nhưng trong những bài giảng trước tôi có đề nghị thêm vào một số chương khác. Vì sống trong một hoàn cảnh xã hội khác xưa cho nên chúng ta phải có những chương mới.

Phần thứ tư là Cảnh Sách. Đây là một bài văn của Thiền Sư Qui Sơn viết bằng thể văn biền ngẫu. Hồi làm Sa di, sau lễ tụng giới tôi hay ra ngoài với các vị Sa di khác để cùng đọc và cùng nghe với nhau 24 chương uy nghi. Đọc xong 24 chương uy nghi rồi thì đọc bài Qui Sơn Cảnh Sách. Trong khi đó thì các Thầy ở lại Chánh điện để tụng giới lớn và giới Bồ Tát.

Ngày Bồ Tát tụng giới mình có thể tổ chức thành một ngày rất vui. Ngày đó chỉ có tụng giới và sống chung với nhau trong tinh thần gia đình. Có những giới mình tụng chung được, như Năm giới và giới Tiếp Hiện, nhưng giới lớn thì phải tụng riêng.

Việc hành trì các bài thi kệ nhật dụng, tôi muốn quí vị bắt đầu ngay. Bắt đầu học năm bảy bài mà mình thấy thiết dụng nhất trong đời sống hàng ngày và thực tập liền. Ví dụ các bài kệ bật đèn, mở nước, nghe điện thoại v.v… sau đó từ từ học cho hết những bài thi kệ ở trong cuốn Từng Bước Nở Hoa Sen. Phải học thuộc lòng mới thực tập được. Trong khi thực tập, nếu sáng tác thêm được những bài mới thì phải ghi lại để đóng góp cho những bản in sau này của cuốn Từng Bước Nở Hoa Sen. Trong vòng mười hôm nữa tôi sẽ yêu cầu quí vị báo cáo cho biết sự thực tập thi kệ nhật dụng chánh niệm như thế nào. Không phải chỉ có quí vị thọ giới Sa di, và Sa di ni mà quí vị thọ giới khác như giới Tiếp Hiện và giới lớn cũng phải báo cáo, vì thi kệ chánh niệm là những bảo vật quí giá nhất của chúng ta, và thực tập những thi kệ này là một truyền thống của Thiền. Cho nên nếu không thực tập thì không thể gọi là chúng ta đang theo truyền thống Thiền được. Bất cứ một cô chú nào đã vào chùa là phải bắt đầu học thuọc lòng những bài thi kệ và phải đem áp dụng những bài thi kệ đó. Áp dụng thi kệ một thời gian thì con người của mình nó văn minh, tươi mát, đẹp hơn, sáng sủa hơn lập tức.

Tôi còn nhớ hồi mới là chú điệu 16 tuổi, một hôm mở cửa đi ra khỏi phòng và đóng cửa lại, tôi đã mở cửa không có chánh niệm, và đóng lại cũng không có chánh niệm. Tuy không đóng một cái rầm như thỉnh thoảng mình vẫn thấy, nhưng biết là tôi không có chánh niệm, nên Sư Ông gọi: “Chú ơi”, tôi dạ kính cẩn tới gần để nhận lời chỉ giáo, thì Sư Ông nói: “con đi ra lại, rồi con đóng cửa lại, kỳ này cho nó đàng hoàng hơn”. Tôi hiểu và biết là kỳ này mình phải làm cho đàng hoàng. Sư Ông của tôi chỉ dạy có một lần thôi mà từ đó trở đi không bao giờ tôi đóng cánh cửa đó mà không có chánh niệm. Cố nhiên với những cửa khác tôi cũng có thực tập, nhưng với cánh cửa đó, không bao giờ tôi dám mở ra và đóng lại không có chánh niệm. Sư Ông không rầy rà gì hết, Ngài chỉ nói “Con đi ra lại đi, rồi con đóng cửa lại, kỳ này cho nó đàng hoàng hơn”. Thành ra bây giờ tôi truyền trực tiếp cho quí vị lời dạy từ Sư Ông của tôi.

Như tôi đã nói, khi chúng ta thực tập thi kệ nhật dụng để giữ chánh niệm, thì con người của chúng ta sẽ trở thành văn minh hơn, đẹp đẽ hơn, phong thái của chúng ta tự nhiên nho nhã, thanh tao hơn rất nhiều, và đó là một cách trang điểm đẹp nhất của con người. Các bà mẹ Việt Nam thường nói “là con gái thì phải đi đứng cho có ý tứ, nằm ngồi cho có ý tứ”, vì khi người con gái đi đứng nằm ngồi có ý tứ thì người con gái đó đẹp hơn lên gấp bội. Không hiểu tại sao các bà mẹ chỉ dạy con gái như vậy mà không dạy cho con trai những điều tương tự, làm như con trai đi đứng có ý tứ nằm ngồi thì không đẹp hơn. Họ cũng đẹp hơn lên giống như con gái vậy, có khi còn đẹp hơn là khác! Vì vậy cho nên con trai hay con gái cũng đều phải đi đứng, nằm ngồi cho có ý tứ. Các bà mẹ có thể không hiểu làm như vậy là thực tập chánh niệm, nhưng mà biết rằng nếu con mình đi đứng, nằm ngồi có ý tứ thì sẽ đẹp hơn nhiều. Ý tứ là một món trang sức tuy không tốn tiền mua nhưng rất quí giá, nó làm cho con người đẹp hẳn hơn lên. Có ý tứ tức là có chánh niệm. Trong Kinh An Ban Thủ Ý tức là kinh dạy về hơi thở có ý thức, có chữ thủ ý. Thủ ý tức là nắm lấy cái ý của mình, duy trì cho cái ý của mình nó sống, đốt lên ngọn đèn chánh niệm ở trong con người của mình để cho nó cháy thật. Nuôi dưỡng ánh sáng sáng của chánh niệm bằng hơi thở, gọi là an ban thủ ý.

Ta biết rằng những bài thi kệ để thực tập chánh niệm bắt nguồn từ Kinh Hoa Nghiêm. Rất nhiều bài ở trong sách Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu được lấy trực tiếp từ Kinh Hoa Nghiêm. Thêm vào đó, chúng ta cũng đã dựa vào truyền thống Kinh Hoa Nghiêm để sáng tác thêm những bài khác, thành ra thực tập thi kệ chánh niệm là một thực tập đã có lâu đời và rất truyền thống.

A2. Cách Nghe Và Nói Pháp Thoại

(Trong Pháp Thoại ngày 29-9-1994)

Xin nhắc lại vài điều để quí vị biết cách nghe Pháp thoại. Theo phương pháp thực tập ở Làng Mai thì nghe Pháp thoại không phải là học giáo lý để có những kiến thức về Đạo Bụt.

Trong các trường học ngoài đời, từ tiểu học cho đến đại học, mình đã liên tục học theo phương pháp thu nhận kiến thức, cố gắng “học năm, ba chữ để làm vốn liếng!”. Nghe Pháp thoại ở Làng Mai không có mục đích đó. Khi nói Pháp thoại , cố nhiên tôi dùng ngôn ngữ và ý niệm để diễn đạt, nhưng ngôn ngữ và ý niệm chỉ là những phương tiện để giúp cho quí vị thấy được những điều vưọt khỏi tầm ngôn ngữ và ý niệm. Nếu quí vị chỉ tiếp nhận bài pháp thoại như là những ý niệm, những danh từ thì chẳng ích lợi gì mà nhiều khi quí vị còn bị kẹt nữa. Điều này Bụt dạy rất kỹ: Nhất thiết tu đa la giáo, như tiêu nguyệt chỉ, có nghĩa là “Tất cả những kinh điển mà tôi dạy, nó như là ngón tay để chỉ mặt trăng, quí vị đừng có lầm ngón tay của tôi là mặt trăng”. Bụt đã cảnh cáo như vậy, thành ra những giáo lý về Vô Thường, Vô Ngã, Niết Bàn, Tam Giải Thoát Môn v.v… ta phải nghe như thế nào để có thể trực tiếp kinh nghiệm với những điều đó, sử dụng một cách thông minh những ngôn từ và ý niệm mà Bụt sử dụng để đạt được kinh nghiệm trực tiếp. Nếu nghe điều gì mà nắm lấy điều đó như một ý niệm, một sự thật, thì đó là một điều rất trái với tinh thần Đạo Bụt, và nó sẽ không dẫn qúi vị đến sự chuyển hóa.

Ngay trong thời Đức Thế Tôn còn tại thế cũng có nhiều thầy bị như vậy, vì thế mà Bụt đã dạy Kinh Người Bắt Rắn, Trong Kinh này Bụt dạy rằng tiếp nhận giáo lý mà tiếp nhận như những ý niệm thì có thể nguy hiểm cho mình và cho những người khác, phải thông minh như là người biết bắt rắn, nếu không thì sẽ bị rắn cắn.

Cách nghe pháp thoại có lợi lạc nhất là nghe pháp thoại để nương vào đó mà thực tập, đừng có bị kẹt vào danh từ và ý niệm. Theo tâm lý học đạo Bụt thì những điều Bụt dạy, những tuệ giác mà Bụt muốn trao truyền, đều đã có sẵn dưới hình thức những hạt giống ở trong tâm ta. Hạt giống của tuệ giác, hạt giống của thương yêu v.v… đều có sẵn trong đất tâm của ta. Những hạt giống quí báu đó có thể bị chôn rất sâu ở trong tâm của mình. Bấy lâu nay, xã hội, cha mẹ, bạn bè ít ai tưới tẩm được những hạt giống đó. Họ chỉ tưới tẩm những hạt giống đau khổ, giận hờn, buồn bã, kiêu căng, lo lắng của chúng ta mà thôi, vì vậy khi nghe giáo lý, ta nên mở lòng ra để cho giáo lý đó, cũng như một trận mưa pháp, thấm tới những lớp đất dưới sâu để những hạt giống tốt của mình như hạt giống tuệ giác, hạt giống từ bi v.v… nhờ cơn mưa pháp mà có cơ hội nảy mầm. Trong thời Bụt tại thế, có nhiều người đã được giác ngộ trong khi nghe pháp thoại, là vì những người đó đã không dùng ý niệm mà nghe, không dùng lý trí mà nghe.

Lý trí của mình nó chỉ là một phần nhỏ của tâm mình mà thôi. So với tàng thức thì ý thức chỉ như là một hột bắp so với một trái bí rợ. Vì vậy cho nên trong nghe Pháp thoại, đừng dùng ý thức nghĩa là đừng suy nghĩ, đừng so sánh, đừng phê phán, đừng phản ứng. Đây là một điều rất quan trọng. Nếu mình dùng trí năng của mình mà so sánh, mà suy nghĩ, mà phán đoán thì mình làm mất cơ hội cho Pháp Vũ thấm sâu vào những lớp đất bên dưới tâm ta. Cũng như trời mưa, thay vì để cho nước thấm vào đất thì mình lấy một tấm nylon để hứng, kết quả là mình không cho những hạt giống dưới đất tâm có điều kiện nảy mầm! Mình làm hại những hạt giống dưới đất, vì vậy mà mình không được hoa trái từ đất tâm! Cho nên trong khi pháp thoại, dầu cho những điều mình đang nghe trái chống với những điều mình đã hiểu, mình cũng đừng phê phán, đừng đối chất. Những đìều mình đã hiểu có thể là sai lầm, và chính những ý niệm đó của mình về giáo lý là bức tường ngăn cản, không cho lời Pháp thấm vào đất tâm, rất là uổng! Mình phải tháo gỡ bức tường đó đi, thì lời pháp mới có thể rơi vào chiều sâu của tâm thức được. Điều này mình phải tập mới làm được, tại vì mình đã quen cách học, cách nghe đó ở trường rồi. Mình đã quen tiếp nhận bằng trí năng, quen so sánh, phê phán, lý luận trong lúc nghe giảng. Vì vậy trong khi nghe pháp mình phải cho anh chàng lý trí đi nghỉ mát, và mở lòng ra cho tâm địa của mình được đón nhận những lời pháp. Phải cho những lời pháp đó, những cơn mưa pháp đó một cơ hội để một lúc nào đó, có thể ngay tại chỗ, có thể năm bảy ngày sau, có thể năm sáu tháng sau, khi cái hạt giống của tuệ giác, của thương yêu, của hiểu biết trong tâm mình được thấm nhuần chất nước mát của pháp, được nảy mầm một cách rất là mầu nhiệm. Vì vậy trong lúc nghe giảng Pháp, tôi thường nói rằng quí vị đừng suy nghĩ, đừng so sánh, đừng phê phán. Thà quí vị vừa nghe vừa ngủ gục còn hơn vừa nghe vừa suy nghĩ, vì trong khi mình ngủ gục anh chàng lý trí vắng mặt, pháp vũ sẽ có một ít cơ hội đi vào tiềm thức của quí vị. Ngược lại, khi tỉnh táo mà quí vị dùng lý trí để đón nhận lời Pháp thì giống như quí vị có tấm nylon để ngăn nước mưa, có bức tường để dội trái banh ra ngoài, không thâu nhập được gì cả, rất uổng.

Trong Thiền môn có loại ngôn ngữ nhằm phá vỡ cách nghe, cách nhận của thiền sinh. Ví dụ có một thiền sinh sau khi nghe giảng về Phật Tánh ở các loài, một hôm lên hỏi vị Thiền Sư: “Bạch Thầy, con chó có Phật tánh hay không?” Thầy trả lời “Không”. Câu trả lời làm cho thiền sinh hoang mang tột độ vì trước đó chàng đã nắm chắc ý niệm muôn loài đều có Phật tánh! Sở dĩ vị thiền sư trả lời như vậy là vì chàng thiền sinh đó học theo kiểu giáo điều. Chàng đã tiếp nhận câu “Tất cả mọi loài đều có Phật tánh” như là một ý niệm, và ý niệm đó có ích lợi gì đâu? Điều quan trọng là mình có tiếp xúc được với Phật tánh đó ở trong mình hay không. Cũng như chánh niệm, điều quan trọng là mình có tiếp xúc được với năng lượng chánh niệm ở trong mình hay không, còn mình biết và hiểu chánh niệm như là một ý niệm thì giống như mình nắm lấy ngón tay chỉ mặt trăng, đâu còn thấy mặt trăng nữa! Dầu cho chàng thiền sinh kia học thuộc lòng được cả ngàn điều như là “tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”, “tất cả đều là vô thường; tất cả đều là vô ngã”, “tam giải thoát môn là Không, Vô tướng, Vô tác” v.v… rồi cứ lập đi lập lại các câu đó mỗi ngày vài ngàn lần thì ích lợi gì cho đời sống của ai đâu? Điều cần thiết là mình thực tập, mình trực tiếp chứng nhập vào những chân lý đó.

Trong thời gian vận động ngừng bỏ bom tại Việt Nam, một hôm tôi dẫn đầu một đoàn diễn hành chừng vài ngàn người tại thành phố Philadelphia thì có một nhà báo tới hỏi: “Thầy từ miền Bắc tới hay từ miền Nam tới?” Lúc đó tôi biết ý của ông nhà báo này, từ miền Bắc tới là Cộng sản, mà tới từ miền Nam là chống Cộng. Do đó tôi đã nói “Tôi từ miền Trung tới”. Câu trả lời làm cho ông mất khí giới! Ông ta chỉ có hai cái hộp: miền Nam và miền Bắc, và ông muốn bỏ mình vào một trong hai hộp đó. Ông không có cái hộp thứ ba, cho nên ông lúng túng. Đó là ngôn ngữ của Thiền, hay Thiền Ngữ. Tôi không muốn làm ông nhà báo cụt hứng, nhưng vì đã được huấn luyện lâu ngày trong thiền môn, cho nên trong những trường hợp dó tôi phải dùng thiền ngữ để cho người đối thoại với mình có một cơ hội. Chính nhờ cái sự hoang mang đó, ông nhà báo mới xét lại việc bỏ người Việt vào một trong hai cái hộp là không đúng. Phải tạo ra cái hộp thứ ba hay cái hộp thứ tư. Tuy vậy không có cái hộp nào có thể chứa đựng được thực tại hết! những cái phạm trù tư tưởng, người ta nghĩ là có thể chứa được thực tại, nhưng trong đạo Bụt chúng ta đã học rằng các phạm trù sanh, diệt; một, nhiều; tới, lui; có, không; đều là những phạm trù không thể chứa đựng được thực tại! Cho nên ngôn ngữ của Thiền có mục đích đập vỡ cái khái niệm của mình, đập vỡ những cái hộp, cái bình chứa ý niệm của mình để cho mình có cơ hội tiếp xúc với thực tại thênh thang, không bao giờ bị gò bó trong vùng ý niệm.

Nói Pháp thoại cũng vậy, phải giảng cho thật khôn khéo để những ngôn từ mình dùng, những ý niệm mình diễn tả không bị người nghe nắm lấy. Mình phải làm thế nào để người nghe nương vào những ngôn từ và ý niệm mình đưa ra để người ta kinh nghiệm đượccái mà mình muốn chỉ cho họ thấy, điều đó rất là quan trọng. Tôi rất thận trọng trong khi giảng Pháp. Lúc lên bảng, viết chữ hạnh phúc bên này và chữ đau khổ bên kia, tôi đã thấy nguy hiểm cho quí vị rồi. Vì vậy tôi đã lưu ý quí vị rằng “Vạch đường phân chia giữa hạnh phúc và khổ đau là có thể làm hại biết bao nhiêu người! Quí vị phải biết rằng cái này được làm bằng cái kia, và cái kia được làm bằng cái này. Dầu mình có gạch đường phân chia này đi nữa, mình phải thấy có tính cách tương tức, tương nhập của vạn pháp thì mình mới có cảm giác an ninh”.

Theo langmai.org

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.