Vài Điều Tưởng Nhớ Đến Ngày Phật Thành Đạo (mùng 8 tháng 12 âm lịch)

Là hành giả học và trì tụng kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA, hẳn nhiều người khi đến phẩm Như Lại Thọ Lượng đều nghe diệu âm của Ngài vang dội với lời nói như sau: Hãy tin lời nói chắc thật của Như Lai “Thật ta thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức kiếp” và như học giả Nguyễn Thế Đăng trong VHPG 242 thì Giác ngộ và Thọ lượng của Như Lai cũng là một và sẽ trải dài đến tương lai vô lượng vô biên và Đức Phật Lịch Sử chỉ là một phương tiện để Ngài thị hiện và giáo hoá chúng sinh ,thế mà ngày nay vẫn có sự phân biệt khác nhau giữa Nam Tông và Bắc Tông về ngày này

Hằng cô chị em bạn dì với tôi thì lại quá khích nên sáng nay đã gọi tôi và khoe rằng Cô ta đọc được một tài liệu hữu ích lắm, mời tôi mở email xem cho rõ chi tiết, dưới đây là một trích đoan của tác giả CHÚC PHỦ trong bài Khảo Cứu về ngày Đức Thích CaMâu Ni thành Đạo dưới cội Bồ Đề dựa vào bồ đoàn Cỏ Kusa mà một cậu bé chăn bò cúng dường Ngài bên bờ sông Niranjana.

“Cỏ Kusa có mặt trong kinh văn Ấn Độ cổ đại, cụ thể là trong tác phẩm Rig-Veda, trong Atharva-Veda và cả trong luật Manu (II.75)[29]. Tác phẩm Atharva-Veda đã dành nhiều đoạn (AV.XIX.32.3), (AV.XIX.33.1) ca tụng loại cỏ thiêng này: Ôi Kusa, cội nguồn của ngươi thì trên Thiên giới, nhưng đã sống vững chải ngay cõi đất này[30]! …. là vua giữa các loại cỏ cây[31].

Cỏ Kusa còn được các nhà khổ tu Ấn giáo sử dụng làm áo mặc (kusacīrampi) hoặc trải làm toà ngồi[32], là phẩm vật quan trọng không thể thiếu trong nghi lễ của Bà-la-môn giáo. Đoạn kinh Tăng Chi đã ghi nhận điều này: Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Jānussoni, nhân ngày trai giới Uposatha, sau khi gội đầu và mặc đôi áo lụa mới, tay cầm nắm cỏ kusa ướt, đứng không xa Thế Tôn bao nhiêu. Thế Tôn thấy Bà-la-môn Jānussoni, nhân ngày trai giới Uposatha, sau khi gội đầu và mặc đôi áo lụa mới, tay cầm nắm cỏ kusa ướt, đứng một bên không xa bao nhiêu, thấy vậy liền nói với Bà-la-môn Jānussoni:

– Này Bà-la-môn, nhân ngày trai giới Uposatha, Ông gội đầu, mặc đôi áo lụa mới, tay cầm nắm cỏ kusa ướt, đứng một bên để làm gì?

Có phải hôm nay là ngày của gia đình Bà-la-môn?

– Thưa Tôn giả Gotama, hôm nay là ngày xuất ly của gia đình Bà-la-môn.

– Này Bà-la-môn, như thế nào là ngày xuất ly của các Bà-la-môn?

– Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn nhân ngày trai giới Uposatha gội đầu, mặc đôi áo lụa mới, thoa sàn nhà với phân bò ướt, trải với cỏ kusa xanh, và nằm xuống giữa đống cát và nhà lửa. Đêm ấy họ dậy ba lần, chắp tay đảnh lễ ngọn lửa và nói: “Chúng tôi đi xuống đến Tôn giả”. Rồi họ đốt lửa với nhiều thục tô, và sanh tô, và sau khi đêm ấy đã qua, họ cúng dường các Bà-la-môn với các món ăn thù diệu, loại cứng và loại mềm. Như vậy, thưa Tôn giảGotama, là lễ đi xuống của các Bà-la-môn[33].

Cỏ Kusa có mặt trong cả năm bộ Nikāya, nhằm chỉ cho một loại cỏ với hai cạnh bên sắc bén, có thể làm đứt tay (Dhp. 311), hoặc dễ bị giật đứt (S.iii,137), hoặc dùng làm áo mặc (D.i, 166; M.ii,162), hoặc dùng để xâu cá (It,67)…Đặc biệt, trong lịch sử Đức Phật, cỏ Kusa là một trong những bằng chứng quan trọng, liên quan đến thời điểm thành đạo của đức Thế Tôn.

3.2 Thiền tòa bằng cỏ Kusa./u>

Theo Nidānakathā, sau khi thọ dụng bát cháo sữa của nàng mục nữ Sujātā, Bồ-tát Siddhattha đã lên đường hướng đến cội Bồ-đề. Trên đường đi, gặp chàng thanh niên tên là Sotthiyo đang gánh cỏ đem bán (tiṇahāraka), sau khi nhận biết (ñatvā) Ngài là một bậc Đại nhân (mahāpurisa), nên anh ta đã cúng dường tám bó cỏ. Bồ-tát nhận cỏ và đi về cây Bồ-đề. Sau khi cân nhắc phương hướng, Ngài đã trải cỏ làm tòa dưới gốc Bồ-đề và dũng mãnh phát nguyện: “Cho dù da thịt, gân, xương trở nên khô cằn, máu trong thân này dẫu có cạn kiệt, nhưng nếu không đạt đạo[34], Ta quyết không rời chỗ này”.(Kāmaṁ taco ca nahāru ca aṭṭhi ca avasussatu, upasussatu sarīre maṁsalohitaṁ, na tv-eva sammāsambodhiṁ appatvā imaṁ pallaṁkaṁ bhindissāmītī)[35]. Đại nguyện này của Bồ-tát cũng được Luận Đại-trí-độ ghi nhận: “Ta nguyện thiền tọa tại đây đến khi chứng đạt Nhất-thiết-trí. Nếu chưa chứng Nhất-thiết-trí, Ta quyết không rời chỗ này”(要不破此結加趺坐, 成一切智; 不得一切智, 終不起也)[36].

Ở đây, trong bản văn Nidānakathā chỉ ghi nhận người thanh niên cắt cỏ tên là Cát tường (Sotthiyo) đã dâng cúng tám bó cỏ (aṭṭha tiṇamuṭṭhiyo adāsi) cho Bồ-tát. Theo từ điển Pāli-English của PTS, Sotthi có nghĩa an lành, an lạc, cũng có nghĩa là cát tường (well-being,safety), ngôn ngữ Sanskrit ghi là Svasti, cũng mang ý nghĩa tương tự[37].

Kinh điển Hán tạng ghi nhận về loại cỏ này rất sớm. Chẳng hạn, trong kinh Tu Hành Bổn Khởi, do Khang Mạnh Tườngdịch vào năm 197[38], ghi rằng, khi Bồ-tát hỏi chàng thanh niên đó tên gì, thì chàng ta đáp rằng: Tên con là Cát Tường, con cắt cỏ Cát Tường[39]. Ngài Huyền Tráng cũng xác tín sự kiện Bồ-tát thọ nhận cỏ Cát Tường trong Đại Đường Tây Vức Ký[40]. Ngài Nghĩa Tịnh trong Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Xuất Gia Sự[41] cũng ghi nhận loại cỏ Cát Tường/u>

Trở lại từ nguyên Sotthi trong Nidānakathā, từ này đã được các nhà dịch thuật Hán tạng phiên âm thành Cô-thi-thảo (姑尸草)[42] và cũng gọi là Cát Tường (言吉祥也). Theo Phật Học Đại Từ Điển của Đinh Phúc Bảo thì Cô-thi-thảo (姑尸草) được dịch là cỏ Cát Tường, Cô-thi (姑尸) chính là Kusa[43]./u>

Từ những khảo chứng nêu trên, đã xác tín rằng, Đức Phật thọ nhận cỏ Kusa từ một người cắt cỏ và trải làm thiền tòa. Sau 49 ngày miên mật thiền định trên thảm cỏ Kusa, Ngài đã giác ngộ viên mãn. Chính vì vậy, theo chúng tôi, việc tìm hiểu thời gian sinh trưởng của cỏ Kusa trong điều kiện tự nhiên, sẽ góp phần làm sáng tỏ thời gian thành đạo của Đức Phật.

3.3. Điều kiện sinh trưởng của cỏ Kusa và thời gian Đức Phật thành đạo.

Cỏ Kusa còn có tên gọi là cỏ Darbha theo Ấn giáo[44], hiện vẫn được dùng làm nệm để ngồi thiền (Kusa mat) và làm nhẫn để đeo (Kusa ring) trong nghi lễ tôn giáo ở Ấn Độ[45]. Các vật dụng bằng cỏ Kusa mãi đến ngày hôm nay vẫn được chế tạo, mua bán giao dịch, có thể tìm thấy trên trang thương mại toàn cầu ebay.in. Theo tạp chí Lịch sử khoa học Ấn Độ (Indian Journal of History of Science), cỏ Kusa có danh pháp khoa học là Desmostachya Bipinnata[46]. Theo tạp chí Quản lý môi trường sinh thái và chăn thả (Rangeland Ecology & Management)[47], Kusa là loại cỏ lưu niên, được phát hiện sống rải rác ở nhiều nơi, từ Sudanian, Bắc Phi, Trung Đông, Trung Á, Pakistan và cả Ấn Độ. Trong nông nghiệp, Kusa được xem như một loài cỏ dại, có khả năng chịu mặn cao. Thân rễ của cây phát triển mạnh sau mùa mưa (after monsoon rains), cây trưởng thành, ra hoa và kết trái từ tháng Sáu cho đến tháng Mười.

Trong điều kiện tự nhiên ở Ấn Độ ngày nay, cỏ Kusa thường sống những vùng trũng, thấp và dọc hai bờ sông. Thuở xưa cũng vậy, kinh Tương Ưng (S.iii,137) ghi nhận cỏ Kusa mọc hai bên bờ sông. Thực tế này giống với trường hợpthanh niên Sotthiyo cắt cỏ Kusa bên bờ sông Niranjana/u>

Ở đây, theo nghiên cứu của các nhà khoa học trong bài viết liên quan đến cỏ Kusa ở tạp chí Quản lý môi trường sinhthái và chăn thả ở trên, thì cỏ Kusa ra hoa và trưởng thành từ tháng Sáu cho đến tháng Mười, sau mùa mưa.

Trong khi đó, ở Ấn Độ có hai mùa mưa, mùa mưa Tây Nam và mùa mưa Đông Bắc. Theo tác giả Sulochana Gadgil, ở Trung âm khí quyển và khoa học đại dương, thuộc Viện khoa học Ấn Độ, thì mùa mưa Tây Nam là mùa mưa chính, diễn ra trên phần lớn lãnh thổ của Ấn Độ, từ tháng 6 đến tháng 9[48].

Từ điều kiện sinh trưởng của cỏ Kusa và điều kiện thời tiết ở Ấn Độ như đã trình bày, thì thời điểm thích hợp để chàng thanh niên Sotthiyo thu hoạch cỏ Kusa thương phẩm để đem bán (tiṇahāraka), không thể diễn ra sớm hơn tháng 6 tây lịch. Như vậy, thời điểm thích hợp để Đức Phật nhận tám bó cỏ Kusa làm thiền tòa vào khoảng tháng 10. Sau đó, Ngài đã thiền tọa bốn mươi chín ngày, tức gần hai tháng.

Nếu lịch sử Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền đều ghi nhận thời gian Bồ-tát thiền định là 49 ngày; nếu cả hai truyền thống Phật giáo đều công nhận Bồ-tát dùng cỏ Kusa để làm thiền tòa, thì thời gian Đức Phật thành đạo hợp lýsẽ diễn ra trong mùa đông, nếu nói chính xác hơn vào khoảng tháng 12 dương lịch.

4. Nhận định

Với Phật giáo nói chung, ngày Thành đạo của Đức Phật là một ngày lễ quan trọng và thiêng liêng. Vì không có ngày Thành đạo của Đức Phật, thì sẽ không có ngày Đản sanh cũng như nhập Niết-bàn. Với ý nghĩa đó, ngày Đức Phậtthành đạo cũng là ngày Phật đản sanh: ngày xuất hiện một vị Phật trên đời. Nhận thức rõ về điều này và tổ chức sự kiện đúng với tầm mức là việc làm có ý nghĩa thiết thực.

Từ thực tế, lễ Đức Phật thành đạo đã được hai truyền thống Phật giáo, Bắc truyền và Nam truyền tổ chức vào hai thời điểm khác nhau trong năm và đã có lịch sử gần 1.500 năm. Việc tổ chức lễ hội thành đạo ở mỗi truyền thống Phật giáo chứa đựng những giá trị đặc thù, và đã trở thành nét văn hóa riêng có.

Từ khảo chứng về điều kiện sinh trưởng của cỏ Kusa và thời tiết Ấn Độ ở trên cho thấy, Đức Phật thành đạo trong mùa đông ở Ấn Độ, vào khoảng tháng 12 tây lịch. Các dữ kiện liên quan đến thời điểm thành đạo của Đức Phật đã cũng cố và bổ trợ cho quan điểm này. Cụ thể, khi những con sông ở Ấn Độ cạn nước vào mùa đông như sông Niranjana, thì Bồ-tát mới dễ dàng lội qua như cổ thư Tây Tạng đã chỉ rõ[49], và phù hợp với thực tế lịch sử ngày nay. Không những vậy, thời điểm Đức Phật thành đạo cũng là thời gian khô ráo, vì suốt gần hai tháng, thời tiết rất thuận lợiđể Bồ-tát thiền định ngoài trời dưới gốc cây Bồ-đề.

Từ những đối khảo đã chỉ ra, thời gian tổ chức lễ thành đạo của hai truyền thống Phật giáo nêu trên mang dấu ấn của chân lý quy ước (sammuti-sacca), vì căn cứ trên sự thống nhất và đồng thuận của nhiều giới và nhiều người, trong quá khứ, cũng như hiện tại. Việc vượt qua giới hạn của chân lý quy ước này, để vươn lên tầm nhận thức chân lý tuyệt đối về thực tại (paramattha-sacca), giúp cho người học Phật gặt hái nhiều thành tựu to lớn, và một trong số đó chính là thành tựu niềm tịnh tín bất động đối với Đức Phật – bậc vĩ nhân có thật trong cuộc đời này.”

Với Tôi ,Ngày Đản sinh và Ngày Thành Đạo của Đức Phật đều dựa vào quan niệm Bắc Tông vì những ngày ấy liên quan đến những kỷ niệm dấu yêu và trân kính đổi với bậc sinh thành ( Cha tôi ) không chỉ là người cha mà vừa là người bạn đã hướng dẫn và dìu dắt tôi trên mọi ngã đường đời …

Ngày Đản sinh của Phật thì trùng hợp với sinh nhật Cha ,còn ngày Thành Đạo thì trước ngày cha mất hai tuần và cũng nhờ biết đến ngày Thành Đạo của Đức Phật vào năm 2008 mà tôi có cơ duyên bước vào ngôi nhà Phật Pháp vĩ đại này.

Còn nhớ những ngày tháng bận rộn vào thăm viếng Cha trong phòng cấp cứu ,một ngày nọ Hằng chạy ngang qua Chùa Hoa Nghiêm nơi đang treo phướn hoa để mừng ngày Thành Đạo của Đức Phật ,tôi tò mò hỏi Hằng” hôm nay có gì đặc biệt mà chùa làm lễ trang trọng vậy ” ,nhờ đó mà Hằng có dịp giới thiệu lịch sử Đức Phật mà từ bé đến giờ tôi mãi mê với sinh kế không lưu tâm đến ,mà có lẽ đó cũng là ước vọng của Cha tôi trong những ngày Cận tử nghiệp đã lo lắng cho tôi có sự che chở của mái ấm tâm linh nên xui khiến tôi đến Chùa Hoa Nghiêm hôm ấy …

Và chỉ hai tuần sau thì cha tôi mất bất ngờ không đau đớn dằn vặt trong khi bác sỉ tin rằng Ông sẽ bình phục lại …Và cũng nhờ Hằng giới thiệu tôi với Thầy trụ trì chùa Hoa Nghiêm mà tang lễ đã được cử hàng trang nghiêm theo nghi thức Phật Giáo với sự chu toàn yểm trợ đạo tràng hộ niệm và các đạo hữu Chùa Hoa Nghiêm ,kể từ khi ấy tôi đã tinh tấn và nghiêm túc học Đạo đến nay …cổ Đức thường dạy ” Ai có uống nước mới biết vị nóng lạnh của nó hay phải có kinh nghiệm mới có sự hiểu biết ” thì làm sao tôi có thể điển tả bằng ngôn ngữ để nói lên niềm hạnh phúc của tôi khi được thiền hành mỗi sáng từ khách sạn không xa đến Bồ Đề Đạo Tràng nơi Đức Thích Ca Thành.

Đạo trong chuyến hành hương Phật Tích 2010 dưới sự hướng dẫn của Thượng Toạ trụ trì chùa Hoa Nghiêm và Quang Minh . Làm sao điển tả đước một sự bất khả tư nghìn như lúc nào mình cũng cảm thấy được hào quang của Ngài đang rọi và nơi tối tăm nhất trong ngõ ngách sâu thẳm nhất hay những diệu âm mà Như Lại đã đưa ta đi vào thế giới thường hằng thâm thâm vì diệu mà biểu hiện bằng những Đà ra ni mà các tăng sỉ Tây Tạng đang hành trì chung quanh cội Bồ Đề …

Ngày nay được hạnh duyên cử hành trang nghiêm kỷ niệm ngày Đức Phật chứng đắc quả VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC theo tục đế ngày mùng 8 tháng 12 âm lịch, xin cảm niệm ân Đức của Ngài và xin được trang trọng niệm 10 hồng danh cao quý NAM MÔ NHƯ LAI, ỨNG CÚNG ,CHÁNH BIẾN TRI ,MINH HẠNH TÚC ,THIỆN THỆ ,THẾ GIAN GIẢI, VÔ THƯỢNG SỈ ,ĐIỀU NGỰ TRƯỢNG PHU ,THIÊN NHÂN SƯ, PHẬT ,THẾ TÔN.

Huệ Hương

This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.