Tri Thức &Trí Tuệ…

(Có phải ta nên gọi AI là Tri thức uyên bác thay vì trí tuệ nhân tạo trong Đạo Phật ? )

Gần đây trong việc học tập mới, người viết đã sử dụng Excel để làm một tờ lịch cho năm 2025 với những danh ngôn của các học giả uyên bác nhờ vậy mới chiêm nghiệm ra sự khác nhau quá xa giữa Tri Thức và Trí Tuệ trong đạo Phật.Quả thật vậy, AI chỉ giúp ta lượm lặt những hiểu biết của người khác rồi từ đó nghiên cứu nghiền ngẫm suy tư một cách rộng rãi hơn qua nhiều lĩnh vực khác nhau ( triết học, nhân văn, khoa học) để phát minh nhiều sáng tạo mới rồi trở lại sử dụng với kiến thức mới, mà chưa thể giúp con người có khả năng phát khởi những thành tựu tiến bộ tâm linh trên con đường giải thoát thông qua tinh tấn nỗ lực.

Vì lẽ đó AI vẫn chưa đạt đến mức độ Tuệ Tri theo như 3 cấp bậc mà cách đây 2600 năm Đức Phật đã đề ra (Tưởng tri, thức tri và tuệ tri ) nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng. Thông qua sự nhận thức này, hành giả dễ dàng phân biệt, để tâm không bị vướng mắc chấp thủ về cái nhìn chủ quan, loại bỏ những ảo tưởng, cố chấp theo quan kiến thường tình đưa đến những hệ lụy, khổ đau.

Và do vậy ta có thể tạm tư duy rằng… cách thức của việc AI biết được chỉ đại diện bởi thức tri (vijanati) và tưởng tri (sanjanati) mà không được xem là đủ để đạt được mục tiêu của Phật giáo về Tuệ tri ( có nghĩa là phải đạt giá trị cao hơn so với thức tri và tưởng tri vì nó nhìn thấy bản chất như thật của vạn pháp và có khả năng đưa đến đoạn diệt, Niết Bàn).

Vì rõ ràng dù cho là tri thức uyên bác đến mấy nó cũng chỉ là phương tiện SINH DIỆT , được rồi sẽ mất trong khi trí tuệ có khả năng thắng tri, sự thấy biết như thật, không chấp thủ. Lại có khả năng liễu tri với sự hiểu biết rốt ráo trọn vẹn; và cuối cùng có khả năng đoạn trừ lậu hoặc (āsavas), dục lậu (kāmāsava), hữu lậu (bhavāsava), và vô minh lậu (avijjāsava), đoạn diệt được tham sân si, chấm dứt khổ đau.

Phải chăng với cái nhìn của người học Phật khi nhìn nhận về sự vật hiện tượng, các sự kiện xảy ra trong đời sống hằng ngày, chúng ta cần loại bỏ bớt cái quan kiến theo tưởng tri và thức tri, mà phải nhìn nhận bằng trí tuệ dù rằng khoa học càng ngày càng hiện đại hơn nhưng chỉ có con mắt trí tuệ mới có thể nhìn nhận đúng sự thật, không suy đoán mù mờ dẫn đến hậu quả sai lầm và chỉ có với con mắt tuệ này, chúng ta mới có sự thấu hiểu và thương yêu, cảm thông và chia sẽ, không tri giác sai lầm về nhau dẫn đến nghi ngờ xung đột mâu thuẫn.( Cái nhìn như thật bao giờ cũng đưa đến sự tin tưởng và bình an; cái thấy như thật luôn đưa đến sự hài hòa và cởi mở. đúng như từ ngữ trong nhà Phật “từ nhãn thị chúng sinh” (mắt thương nhìn cuộc đời).

Phải chăng AI chưa thể giúp ta nhìn thấu rõ tâm can, thấu rõ những nỗi khổ niềm đau để cảm thông chia sẽ. Con mắt tuệ mới nhìn thấy các khía cạnh tiềm năng trong con người để kích thích các hạt giống tiềm năng ấy phát triển. Đồng thời làm cho các hạt giống xấu, tiêu cực không có cơ hội trổi dậy, cũng chưa thể giúp chúng ta biết cách biến ngôn ngữ thành kỹ thuật siêu việt trong thơ văn ?

Có thể nào AI có thể nhìn thấy được, miêu tả xã hội đương thời, một xã hội trong nhiều biến động, chiến tranh, bịnh dịch mà cuối cùng chỉ đi đến Hoại , Không dù có trải dài ngàn ngàn thế kỷ vẫn phải tuân quy luật SINH TRỤ HOẠI DIỆT .

Kính mượn một ví dụ điển hình để nói lên chừng nào AI có thể giúp chúng ta lột tả một cách tài tình những hình tướng của các bậc A Là Hán qua bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” do Huy Cận sáng tác theo thể thơ mới khi chứng kiến tận mắt, AI có những cảm xúc như nhà thơ chăng khi mượn đề tài trong cảnh giới Phật chăng ? (một trong 4 điều bất khả tư nghị)!

Để chứng minh kính xin trích nguyên văn bài thơ ấy :

(Được biết Chùa Tây Phương – Sơn Tây nằm tại huyện Thạch Thất, trước năm 1965 thuộc tỉnh Sơn Tây cũ, qua thời gian được nhập vào các tỉnh Hà Tây, Hà Sơn Bình, và thuộc Hà Nội từ năm 2008.có những pho tượng La Hán rất đẹp, rất sinh động, tạc vào thế kỷ 18.)

Các vị La Hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương.
Há chẳng phải đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau thương?

Đây vị xương trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay.

Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.

Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn…

Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.

Mỗi người một vẻ, mặt con người
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã
Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi.

Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.

Có thực trên đường tu đến Phật
Trần gian tìm cởi áo trầm luân
Bấy nhiêu quằn quại run lần chót
Các vị đau theo lòng chúng nhân?

Nào đâu, bác thợ cả xưa đâu?
Sống lại cho tôi hỏi một câu:
Bác tạc bấy nhiêu hình khổ hạnh
Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau?

Hay bấy nhiêu hồn trong gió bão
Bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu đời
Là cha ông đó bằng xương máu
Đã khổ, không yên cả đứng ngồi.

Cha ông năm tháng đè lưng nặng
Những bạn đương thời của Nguyễn Du
Nung nấu tâm can, vò võ trán
Đau đời có cứu được đời đâu.

Đứt ruột cha ông trong cái thuở
Cuộc sống giậm chân hoài một chỗ
Bao nhiêu hi vọng thúc bên sườn
Héo tựa mầm non thiếu ánh dương.

Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
Sờ soạng cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên mặt tượng
Nửa như khói ám, nửa sương tà.

Các vị La Hán chùa Tây Phương!
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương.

Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng hoá gần!
Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây, tươi vạn dặm đường xuân.

Huy Cận – 27-12-1960

Nói tóm lại, người viết kính xin mượn lời dạy của HT Thích Thiện Hoa để xác nhận lại hai chữ Trí Tuệ như sau
“ Giá trị và công năng của trí huệ lớn lao không thể nói hết. Nó là cứu cánh của người Phật tử. Cứu cánh ấy, chúng ta phải cố đạt cho được.

Trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật cũng đã thiết tha khuyên các Đệ tử phải trao dồi trí huệ như sau:

“Trí huệ là chiếc thuyền kiên cố chở khỏi biển già, đau, chết; là ngọn đèn lớn chói sáng vô minh hắc ám, là liều thuốc hay chữa hết thảy bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt gãy cây phiền não. Vậy các người phải lấy sự nghe, sự suy nghĩ, sự tu tập mà tự tăng ích cho trí huệ mình”. (Kinh Di Giáo).

Những lời nhắn nhủ thống thiết của đức Bổn sư, chúng ta không thể không ghi nhớ và thực hành được.

Vì muốn có được trí huệ, đức Phật chế ra nhiều pháp tu. Trong số nhiều pháp tu ấy thì “Văn, Tư, Tu” và “Giới, Định, Huệ” là những pháp thường được nhắc nhở và thực hành nhiều nhất.

Theo đó Văn huệ, tư huệ, tu huệ, ba môn khuyết một không được. Nếu ai nghe mà không suy nghĩ, thì như làm ruộng mà không gieo mạ; nếu suy nghĩ mà không tu, thì như làm ruộng mà không tát nước, bừa cỏ, rốt cuộc không có kết quả. Ba huệ được đầy đủ thì chứng quả Tam thừa?” (Sa Di thập giới).

Trong khi Giới: là lời răn dạy của Phật )xem lại bài Trì giới Ba la mật).

Định: là thiền định, giữ cho tâm ý không loạn động, để suy nghiệm đến những vấn đề căn bản của Đạo (xem lại bài Thiền Định Ba la mật).

Huệ: là sự phát chiếu của Trí, sau khi đã tẩy sạch phiền não và vô minh.

Giới, Định, Huệ tương quan mật thiết với nhau: Do trì giới mà thân tâm không loạn động. Do thân tâm không loạn động mà tâm trí được Định. Tâm trí khi đã định thì Trí huệ phát chiếu.

Ngược lại, Trí huệ phát chiếu thì tâm dễ Định, Tâm đã Định thì Trì giới không khó khăn. Và như vậy Giới, định, huệ, đều tương duyên tương quan mật thiết với nhau, một cái tăng thì hai cái kia cũng tăng.” Trích Phật học Phổ thông.

Lời kết :

Đây chỉ là những tư duy rất thô thiển, kính mong được chỉ dạy thêm trong cấp độ nhận thức khác biệt.

Các bạn có đồng ý với người viết rằng: KHÔNG PHẢI AI CÓ TRI THỨC THÌ ĐƯỢC GỌI LÀ CÓ TRÍ TUỆ ?

Vì để xứng đáng là một người có trí tuệ, người ấy phải biết dùng tri thức đó để phục vụ bản thân và cộng đồng xã hội , bằng không theo cái nhìn của người học Phật họ vẫn mãi vô minh.

Trí tuệ chính là cái làm nên con người hiện tại, thông qua hoạt động tôn giáo , chính trị , tâm lý đạo đức, những tri thức được tiếp thu phải hoà tan vào trong từng tế bào từng mạch máu và đi đến bộ não con tim.

Và phải chăng mỗi chúng ta khi tham vấn ChatGPT nên gọi thân mật rằng: ”Hởi bạn thiện hữu nhân tạo của nhân gian với tri thức uyên bác xin giúp giải đáp một vấn đề này …”
Kính trân trọng,

Úc Châu 9/6/2024
Huỳnh Phương-Huệ Hương

This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.