Ý nghĩa 12 lời nguyện niệm Phật

Lời nguyện thứ ba

“Kính lạy Phật Di-đà,
Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài,
Sống an vui tự tại”.

Người học Phật phải có một đời sống an vui và tự tại. Có những người trong cuộc sống rất đầy đủ vật chất, rất giàu có, thế nhưng cuộc sống vẫn chồng chất những đau khổ, những bất hạnh. Lúc còn tại thế đức Phật và đệ tử của Ngài không có của cải, không có đồ cất chứa để dành, chỉ ba y và một bát, mỗi ngày ăn một bữa, khi ăn ôm bát đi khất thực. Khất thực ngày nào ăn ngày đó, không có để dành vật thực. Thế mà các Ngài vẫn an vui tự tại. Bởi vì các Ngài thấy rõ thực tướng của nhân sinh và vạn vật là giả là không, nên không tham đắm, do không tham đắm nên an vui tự tại. Còn chúng ta là những người học Phật, phải lấy niềm vui Phật pháp để nuôi dưỡng thân tâm của mình. Muốn được an vui tự tại trong cuộc sống này, mình phải nhận thức rõ thế gian là vô thường, thân người là giả tạm, không có cái gì là chắc thật. Do nhận thức được như vậy, cho nên chúng ta không có chấp trước. Sở dĩ người ta khổ, người ta không có niềm vui, không có hạnh phúc là do chấp trước. Chúng ta chấp có thân mình, rồi chấp những thứ của mình, hễ ai đụng đến mình, đụng đến cái của mình sẽ bực, sẽ khổ. Bây giờ mình hiểu, cái thân không phải của mình và tất cả những gì chung quanh mình cũng không phải của mình, như vậy sẽ không còn cái gì để chấp nữa, có thể xả được hết. Khi mình xả được thì dù ai có nói gì, làm gì cũng không có chấp trước, mà không có chấp trước thì không có đau khổ. Như vậy người niệm Phật là người luôn luôn phải tươi vui. Mình học Phật, đã nhận rõ được thực chất của nhân sinh và vũ trụ là duyên sinh, là không thì không có lý gì chấp những thứ đó để phải đau khổ. Do vậy mà gương mặt của chúng ta lúc nào cũng phải tươi và vui.

Mình là người tu theo pháp môn niệm Phật để cầu về thế giới Cực Lạc của đức Phật A-di-đà. Mà thế giới Cực Lạc là một thế giới rất vui, không có khổ. Vậy mình muốn về thế giới rất vui thì phải có cái “nhân” vui. Nghĩa là lúc nào chúng ta cũng phải tươi vui. Có cái nhân đó chúng ta mới có cái quả được sinh về thế giới Cực Lạc. Còn nếu chúng ta tu học Phật pháp, lúc nào cũng nhăn nhó, khó chịu, bực bội thì đó là kết quả của cái tâm phiền não, cho nên nó mới thể hiện ra nơi gương mặt, nơi hành động của chúng ta bực bội, khó chịu, nhăn nhó. Trước đây chúng tôi có làm mấy câu:

“Ai mặt nhăn như khỉ,
Chết sẽ sinh làm quỷ;
Ai muốn sinh làm quỷ,
Mặt cứ nhăn như khỉ”.

Do tâm của mình phiền bực gương mặt mới nhăn, mới khó chịu, mà cái nhân đó là cái nhân của địa ngục, ngạ quỷ. Người học Phật mà gương mặt cứ u sầu, nhăn nhó, khó chịu người ta nhìn thấy ai mà dám tu theo Phật. Còn:

“Ai mặt tươi như hoa,
Chết về Phật Di-đà;
Ai theo Phật Di-đà,
Mặt phải tươi như hoa”.

Như vậy, người niệm Phật phải luôn luôn có gương mặt tươi vui, mới xứng đáng là đệ tử Phật, mới có thể về thế giới của Phật A-di-đà được. Đó là ý nghĩa của lời nguyện thứ ba.

Lời nguyện thứ tư

“Kính lạy Phật Di-đà,
Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài,
Không ác ý với ai”.

Ác ý ở đây có nghĩa là cái ý xấu, ý bất chính, ý hại người, ý chiếm đoạt v.v… Chẳng hạn như mình có ý nghĩ trộm cắp của người, ý nghĩ tà hạnh muốn xâm phạm đến tiết trinh của người, ý nghĩ sát sinh hại vật để thỏa mãn khẩu vị, đó là những ý ác. Hoặc là mình có những ý nghĩ xúi giục người ta vào con đường tội lỗi. Chẳng hạn như mấy ông rủ rê người ta ăn nhậu, đó cũng là ý ác. Bởi vì mình rủ rê người ta vào con đường ăn nhậu là con đường hư thân, sa đọa. Hoặc có những người buôn bán xì ke ma túy, vì muốn có lời, cho nên xúi giục, dụ dỗ người ta hút để mình bán, đó cũng là ý ác. Hoặc mình xúi người ta ăn cắp, ăn trộm. Hoặc có người đến chùa quyến rũ, dụ dỗ Tăng Ni ra đời để chung sống với họ. Hoặc có ý tà phá phạm hạnh của người xuất gia, đều là ý ác cả. Người niệm Phật luôn nhớ đến Phật, mà đức Phật không bao giờ có những ý nghĩ làm tổn thương, làm đau khổ, làm cho ai bị sa đọa. Người niệm Phật cũng vậy, phải nhớ đức hạnh của Phật và mình không được có ý nghĩ làm cho người khác đau khổ, không có ý nghĩ xúi người ta vào con đường dâm ô sa đọa, táng gia bại sản, mất mạng hoặc đi vào con đường tội lỗi. Đó là lời nguyện thứ tư.

Lời nguyện thứ năm

“Kính lạy Phật Di-đà,
Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài,
Luôn nói lời từ ái”.

Lời từ ái là lời thương yêu. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni của chúng ta luôn nói lời thương yêu, hòa nhã, nhẹ nhàng, êm dịu, khiến cho người nghe được phấn chấn tinh thần, an vui, hạnh phúc, thêm niềm tin, nghị lực sống, giúp người ta hòa thuận với nhau, hướng đến chỗ tích cực làm lành, tinh tấn tu hành. Chúng ta là người học Phật, thường niệm Phật thì phải noi gương Phật, nói lời thương yêu. Ở trong cuộc sống của chúng ta rất cần những lời nói thương yêu, nhẹ nhàng, lời nói đưa người ta đến chỗ an vui hạnh phúc. Các cụ ngày xưa có câu:

“Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

Hoặc:

“Khi ta thốt lời ra,
Nói sao cho ôn hòa;
Khiến người nghe cảm mến,
Ghi nhớ mãi không quên.

Miệng ta là hoa sen,
Một phen đã hé nở;
Tỏa hương thơm Phật pháp,
Gieo mầm giác cho người”.

Khi mình thốt lời ra, nói như thế nào để cho người nghe có được ấn tượng tốt, người ta nhớ mãi không quên. Cũng đồng thời một lời nói, mình biết khéo léo thì người nghe cảm thấy dễ chịu, có được niềm tin trong cuộc sống và người ta dễ dàng chuyển hóa những thói hư tật xấu; nhưng cũng lời nói nếu chúng ta nói thô lỗ, nói cộc cằn, nói mắng nhiếc, nói ác khẩu thì lời nói đó gây cho người ta chói tai, bực phiền và không có sức thuyết phục để cải hóa. Do vậy, một khi mình thốt lời ra, phải cố gắng làm thế nào để cho người nghe tiếp nhận và hoan hỷ. “Miệng ta là hoa sen, một phen đã hé nở”. Như quý vị cũng biết, hoa sen nó thơm, khi hé nở ra thì tỏa mùi hương làm cho người ta dễ chịu. Chúng ta đừng có mở miệng ra giống như hũ mắm thối, người ta sẽ chạy mất, không ai hoan hỷ ngửi mùi đó đâu, người ta chỉ thích ngửi mùi sen thơm thôi. Như vậy mỗi lần chúng ta mở lời ra, làm thế nào khiến cho người nghe cảm mến, khiến cho người nghe hoan hỷ, khiến cho người nghe được chuyển hóa những lỗi lầm, khiến cho người nghe có thêm niềm tin, thêm sức sống, thêm tinh tấn. Chúng ta đừng nói ra những lời làm cho người ta đau khổ.

Trong giáo lý đạo Phật có “Tứ nhiếp pháp”, là bốn phương pháp để cảm hóa lòng người. Trong bốn phương pháp đó, gồm có: bố thí nhiếp, ái ngữ nhiếp, lợi hành nhiếp và đồng sự nhiếp. “Ái ngữ nhiếp” là dùng lời nói thương yêu, lời nói nhẹ nhàng, lời nói êm dịu để mà thu phục lòng người, nhiếp hóa mọi người. Do vậy, khi chúng ta đã phát nguyện niệm Phật, thường xuyên niệm Phật cần phải nói những lời thương yêu. Trong cuộc đời này rất cần những lời nói nhẹ nhàng, êm dịu, hòa nhã để giúp người ta cải hóa, giúp người ta thêm niềm tin trong cuộc sống. Cho nên, lời phát nguyện thứ năm nhắc nhở chúng ta cần phải nói lời từ ái đối với tất cả mọi người.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.